TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) Thành phố H, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2022/TLST-HS ngày 22/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-HS ngày 01/4/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trịnh Hoàng L;
Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;
Sinh ngày 05/8/1966;
Nơi sinh: Huyện L, tỉnh Hòa Bình;
Nơi cư trú: Tiểu khu 8, Thị trấn L, Huyện L, Tỉnh Hòa Bình;
Quốc tịch: Việt Nam;
Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/10;
Con ông: Trịnh Nam S, đã chết; Con bà: Hà Thị L, đã chết;
Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ 06 trong gia đình;
Vợ: Trương Thị Kim L, sinh năm 1968;
Con: Trịnh Nhật Minh A, sinh năm 2008. Chỗ ở: Bến Tre. Tiền án: 03 tiền án.
- Năm 1997, bị TAND huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân, theo Bản án số 06/HSST ngày 29/01/1997, chưa chấp hành xong khoản tiền sung quỹ Nhà nước và án phí về dân sự.
- Năm 1998, bị TAND TP Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Mua bán phụ nữ theo Bản án số 1761/HSST ngày 26/11/1998; chưa chấp hành xong khoản tiền phạt sung công quỹ Nhà nước và khoản tiền truy nộp hưởng lời bất chính.
- Năm 2018, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 42 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 10/2018/HS-ST ngày 03/4/2021; chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 20/4/2021.
Tiền sự: không.
Nhân thân:
- Năm 1996, bị TAND huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Bản án số 16/HSST ngày 17/7/1996.
- Năm 2013, bị TAND huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 122/2013/HSST ngày 30/12/2013.
- Ngày 28/12/2017 bị Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo Trịnh Hoàng L bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/12/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình. Được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Anh Trần Khánh Đ, sinh năm 1975 Nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trịnh Hoàng L, sinh năm 1966, nơi cư trú: Tiểu khu 8, Thị trấn L, Huyện L, tỉnh Hòa Bình là người sử dụng chất ma túy. Khoảng 09 giờ ngày 07/12/2021, L điều khiển xe mô tô Honda Wave, màu đỏ, BKS 35H7 - 0439 mượn từ Trần Khánh Đ (Tiểu khu 6, Thị trấn L) đi đến Thành phố H với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân.
Khi đi đến khu vực cổng Bệnh viện Y học cổ truyền Tỉnh Hòa Bình, thuộc Phường Q, Thành phố H. Tại đây L gặp một người đàn ông không quen biết, qua trao đổi L mua được của người đàn ông đó hai gói giấy, bên trong chứa ma túy với giá 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng).
Sau khi mua được ma túy, L cất giấu vào trong túi quần bên trái, phía trước L đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến khu vực thuộc Tổ 11, Phường Đ, Thành phố H thì bị tổ công tác Công an Thành phố H phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma túy L vừa mua đang để trong túi quần bên trái của L. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải L về trụ sở để xử lý theo quy định.
Tại bản Kết luận giám định số 353/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 10/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:
"Chất bột màu trắng, hồng trong 02 gói giấy trong phong bì niêm phong một mặt có ghi “Đối tượng bị bắt Trịnh Hoàng L” gửi giám định có tổng khối lượng 0,30g (Không phẩy ba mươi gam), là ma túy, loại Heroine và Methamphetamine".
Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 21/32022 của VKSND Thành phố H truy tố Trịnh Hoàng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm (o) khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 (BLHS).
Tại phiên tòa:
Bị cáo tiếp tục thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.
Đại diện VKSND Thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố; đánh giá vụ án, làm rõ về hành vi, tiền án, nhân thân của bị cáo; đề nghị HĐXX:
- Áp dụng điều luật viện dẫn theo Cáo trạng, áp dụng Điều 38, Điều 47 - BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (TTHS) xử phạt Trịnh Hoàng L từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù;
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ hoàn lại sau giám định;
- Bảo lưu vật chứng tại Công an Thành phố H đối với chiếc xe máy BKS 35H- 0439 bị cáo sử dụng khi đi mua ma túy để tiếp tục xác minh, xử lý sau; các vấn đề khác của vụ án đề nghị HĐXX tuyên theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:
Cơ quan điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, VKSND Thành phố H, Kiểm sát viên - trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật TTHS. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.
[2] Về tội danh Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trịnh Hoàng L thừa nhận ngày 07/12/2021 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,30 gram (Không phẩy ba mươi gam) ma túy Heroine và Methamphetamine mục đích sử dụng cho bản thân, bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân, xác định trọng lượng, bản kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Trong vụ án này, bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xét xử, có 03 tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Do vậy có đủ cơ sở xác định bị cáo Trịnh Hoàng L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm (o) khoản 2 Điều 249 - BLHS. Vì vậy, VKSND Thành phố H truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.
[3] Về tính chất hành vi phạm tội và hình phạt Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an và ảnh hưởng xấu đến công cuộc đấu tranh phòng chống ma túy.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Xét bị cáo có quá trình nhân thân xấu nên cần xử lý nghiêm khắc, áp dụng hình phạt tù theo quy định Điều 38 - BLHS, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS):
Tình tiết tăng nặng TNHS: Không;
Tình tiết giảm nhẹ TNHS: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS cần xem xét áp dụng, giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo, theo quy định tại điểm (s) khoản 1 Điều 51 - BLHS.
[4] Về vật chứng:
Đối với số ma túy đã thu giữ hoàn lại sau giám định, thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành - cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47 - BLHS; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 - Bộ luật TTHS.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ, BKS 35H7-0439; số khung: RLHHC1205AY159984; số máy: HC12E-2660021, đã qua sử dụng, chưa xác minh được tài sản là hợp pháp nên cần lưu tại kho vật chứng Công an thành phố H để tiếp tục xác minh, xử lý sau theo đề nghị của đại diện VKSND là phù hợp.
[5] Về án phí: Bị cáo còn phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với việc bị cáo khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết với giá 200.000đ tại khu vực cổng Bệnh viện y học cổ truyền thuộc Tổ 9, phường Q, Thành phố H; quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với anh Trần Khánh Đ là người đã cho Trịnh Hoàng L mượn chiếc xe mô tô, không biết việc L đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra Công an thành phố H không xử lý hình sự đối với Trần Khánh Đ là có căn cứ.
Vì các lẽ trên, HĐXX Tòa án nhân dân Thành phố H
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ - Áp dụng: Điểm (0) Khoản 2 Điều 249; Điểm (s) Khoản 1 Điều 51; Điều 38, 53 BLHS đối với Trịnh Hoàng L;
Tuyên bố Trịnh Hoàng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
Xử phạt:
Trịnh Hoàng L 5 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/12/2021.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 - BLHS; Khoản 1, Điểm a, Khoản 2, Điều 106 - Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ hoàn lại sau giám định chất ma túy mang tên Trịnh Hoàng L có đặc điểm, tình trạng như trong Biên bản giao nhận vật chứng số: 44/BB ngày 08/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố H.
3. Về án phí: áp dụng Khoản 2 Điều 136 - Bộ luật TTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án; buộc Trịnh Hoàng L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo để xét xử theo trình tự phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về nội dung trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST
Số hiệu: | 25/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về