Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 25/2021/HSST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 17/9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/HSST ngày 24 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HS, ngày 06/9/2021 đối với các bị cáo:

1. THÁI XUÂN T (tên gọi khác: không), sinh ngày 10/8/1997, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn A, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật Giáo; Con ông Thái Văn M (Đã chết); Con bà: Trần Thị Th, sinh năm 1967; Vợ Đinh Thị H; sinh năm 2001; Bị cáo có 01 con sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2021 đến ngày 30/3/2021, chuyển tạm giam từ ngày 31/3/2021, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thị xã Buôn Hồ, có mặt.

2. LÊ THỊ TH (tên gọi khác: không), sinh ngày 22/8/1992, tại tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Đình H (Đã chết); Con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1957; Chồng Nguyễn Khắc K; sinh năm 1984; Bị cáo có 03 người con, con lớn sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/5/2021 đến ngày 20/5/2021, chuyển tạm giam từ ngày 21/5/2021, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thị xã Buôn Hồ, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Hồ Tấn H; Địa chỉ thôn M, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Lê Thị Minh T; Địa chỉ thôn T, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Bùi Thị Trà Giang; Địa chỉ xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Lê Hữu Th; Địa chỉ thị trấn Buôn T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Nguyễn Thượng Nh; Địa chỉ tổ dân phố P, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

3. Nguyễn Quốc B; Địa chỉ tổ dân phố I, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

4. Phạm Thị Hồng Â; Địa chỉ Tr, phường L, quận G, thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị Th và Thái Xuân T là bạn bè và đều nghiện ma túy. Vào ngày 20/3/2021, thông qua ứng dụng Messenger mạng xã hội Facebook Th liên lạc với T, sau đó hai người thống nhất mỗi người góp 8.000.000 đồng để mua chất ma túy loại Ketamine (Ke) và thuốc lắc (Kẹo) để về chia nhau sử dụng. Do trước đây T đi chơi tại thành phố Hồ Chí Minh có quen một người phụ nữ tên H1 bán ma túy và sử dụng tài khoản Zalo “Linh Anh” (nhưng không rõ nhân thân, lai lịch), nên T sử dụng tài khoản Zalo “Thái Thành” của mình kết bạn với Zalo “Linh Anh” sau đó T đã liên lạc giao dịch Zalo với H1 để hỏi mua ma túy số tiền 15.000.000đ và yêu cầu tiền công đi gửi là 900.000đ thì T đồng ý. Sau khi thỏa thuận mua bán ma túy thì H1 gửi cho T số tài khoản 223110101000056 đăng ký tại Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam, tên chủ sở hữu Phạm Thị Hồng Â, sinh năm 1998, trú tại D3 Dương Quảng H, phường P, quận G, thành phố Hồ Chí Minh để Thành chuyển tiền cho H. Sau đó T nhắn tin cho Th số tài khoản trên, để Th chuyển 15.900.000đ vào số tài khoản theo yêu cầu của H. Khi Th chuyển tiền thành công, thì T gửi số điện thoại 0947522221 của Th cho H, để H tự liên lạc với Th trong việc gửi ma túy về. Khoảng 08 giờ ngày 21/3/2021 Th nhận được tin nhắn qua Zalo và mở ra xem thì thấy có thùng hàng đựng một số đồ chơi trẻ em bằng nhựa như Chén, bát, lon Cocacola..., trên thùng có ghi số điện thoại 0947522221 của Th và địa chỉ nhận hàng là xã Ea Hồ, huyện Krông Năng, Đắk Lắk; sau đó Th nhận được điện thoại của một người phụ nữ gọi và nói “Thái Xuân T nhờ chị gửi đồ về cho em và nói Th kết bạn Zalo với người phụ nữ này nhưng Th không đồng ý”, đồng thời người phụ nữ này cho biết đã gửi thùng hàng cho nhà xe Thanh Hà chạy tuyến Sài Gòn đi Buôn Hồ, Đắk Lắk và gửi số điện thoại của nhà xe để Th liên lạc nhận thùng hàng trong đó có ma túy. Đến khoảng 16 giờ ngày 21/3/2021 Th gọi điện cho Nhà xe Thanh Hà thì được biết xe đã về đến bến xe thị xã Buôn Hồ nhưng do xe bị hư nên không đi vào xã Ea Hồ được nên yêu cầu Th đến Bến xe thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk để nhận hàng. Lúc này do Th không đi ra nhận thùng hàng có chứa ma túy được, nên đã gọi điện cho Hồ Tấn H tên thường gọi là “Lỳ” sinh năm 2001, trú tại xã Pong Drang, huyện Krông Búk, tỉnh Đăk Lăk, là người quen của Th và hỏi H đang ở đâu, thì H trả lời đang đi thị xã Buôn Hồ ăn tối cùng bạn, nghe H nói vậy thì Th nhờ H mua hộ 02 bịch chè và đến bến xe Buôn Hồ nhận giúp thùng hàng là đồ chơi trẻ em đưa vào xã Ea Hồ, huyên Krông Năng cho Th”. Do không biết bên trong thùng hàng có chứa chất ma túy nên H đồng ý nhận giùm. Sau khi ăn tối H điều khiển xe mô tô biển số 47E1-34214 (xe này do H mượn của chị Bùi Thị Trà G), chở theo bạn là Trần Như V cùng đến bến xe thị xã Buôn Hồ để nhận thùng hàng cho Th. Sau đó Th gọi điện cho Thái Xuân T nói ma túy đã về đến thị xã Buôn Hồ và bảo T ra Buôn Hồ nhận hàng và dẫn H đi vào nhà Th vì H không biết đường. Khoảng 18 giờ 45 phút cùng ngày, khi Hải đi vào nhận thùng hàng tại Bến xe Buôn Hồ, ở TDP 4, phường An Bình, thị xã Buôn Hồ, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ phát hiện lập biên bản bắt quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Còn Thái Xuân T sau khi liên lạc với Hồ Tấn H không được, biết H đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ bắt, nên T đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ tự thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lê Thị Th khi biết Hồ Tấn H và Thái Xuân T bị bắt, đã bỏ trốn khỏi địa phương đến ngày 15/5/2021 Th đến Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản kết luận giám định số 361/GĐMT-PC09 ngày 26/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Lăk kết luận: “Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói Nylon trong suốt được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 15,0435gam, loại Ketamine; 37 viên nén màu vàng gửi giám định có tổng khối lượng: 15,5022gam, chưa tìm thấy chất ma túy thường gặp”.

Tại bản kết luận giám định số 2274/C09 ngày 19/4/2021 của Phân viện khoa học Hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Mẫu viên nén màu vàng được niêm phong gửi giám định đều không tìm thấy thành phần các chất ma túy và tiền chất theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 và Nghị định số 60/2020/NĐ-CP, ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chính Phủ”

Vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ gồm:

- 02 gói Nilong trong suốt, bên trong có chứa các cục chất rắn dạng tinh thể màu trắng, là ma túy có tổng khối lượng 15,0435gam, loại Ketamine; 01 gói Nilong trong suốt bên trong có chứa 37 viên nén màu vàng có hình con ngựa, có tổng khối lượng 15,5022gam, không tìm thấy thành phần các chất ma túy và tiền chất; 01 thùng giấy Cattong, màu đỏ và nâu vàng, có ký hiệu “Vibook”, trên thùng có ghi chữ “BH 0947522221 Th”, bên trong có một số đồ chơi trẻ em bằng nhựa như: Nồi, chén bát, ấm nước, lon Cococola, bàn, ghế, đây là các vật dụng liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng và 01 chiếc điện thoại di động Nhãn hiệu Iphone 6 plus, màu vàng, số Imei: 354390064561860, có gắn sim số 0868854859 của Thái Xuân T; thu giữ của Hồ Tấn H 01 xe Môtô, nhãn hiệu Honda, số loại, AIR BLADE, màu, Xám Bạc; biển số 47E1-342.14, số máy, JF63E2049653; số khung 6328HZ041695.

Bản cáo trạng số 28/CT-VKSBH, ngày 23/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ đã truy tố các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào khoảng 18 giờ 45 phút ngày 21/3/2021 tại bến xe Buôn Hồ, thuộc TDP 4, phường An Bình, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Ketamine khối lượng 15,0435gam.

Hành vi của các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Thái Xuân T từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù.

- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thị Th từ 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng đến 04 (Bốn) năm tù.

Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; các điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 thùng giấy Cattong, màu đỏ và nâu vàng, có ký hiệu “Vibook”, trên thùng có ghi chữ “BH 0947522221 Th”, bên trong có một số đồ chơi trẻ em bằng nhựa như: Nồi, chén bát, ấm nước, lon Cococola, bàn, ghế, đây là các vật dụng liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng và khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 14,888 gam loại Ketamine và 11,1923gam mẫu viên nén màu vàng hình con ngựa còn lại sau giám định.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Nhãn hiệu Iphone 6 plus, màu vàng, số Imei: 354390064561860, có gắn sim số 0868854859 của Thái Xuân T. Đây là phương tiện Thành sử dụng vào việc phạm tội.

Chấp nhận CQCSĐT công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại cho chị Bùi Thị Trà G 01 xe Môtô, nhãn hiệu Honda, số loại, AIR BLADE, màu, Xám Bạc; biển số 47E1-342.14, số máy, JF63E2049653; số khung 6328HZ041695. Đây là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị Trà G.

Các bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, trong phần lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Ketamine khối lượng 15,0435gam. Hành vi của các bị cáo được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ đối với các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

g) Các chất ma túy khác ở thế rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam”;

[3] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy mà còn xâm phạm trật tự an toàn xã hội và là nguyên nhân của những hành vi nguy hiểm khác cho xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Thiệt hại do ma túy gây ra không những gây hại về trước mắt đối với những người sử dụng chất ma túy mà còn gây hại đến toàn cộng đồng, tác động của nó ảnh hưởng xấu và lâu dài cho xã hội. Đặc biệt tội phạm về ma túy đang diễn biến phức tạp và là hiểm họa của toàn cầu. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh, áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và buộc các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Thái Xuân T tự thú về hành vi của mình, do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Bị cáo Lê Thị Th sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Đối với 37 viên nén màu vàng hình con ngựa theo các bị cáo khai đây là ma túy dạng thuốc lắc (kẹo) các bị cáo mua về để sử dụng. Tuy nhiên theo kết luận giám định cho thấy không tìm thấy thành phần các chất ma túy và tiền chất, nên không buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ 37 viên nén màu vàng hình con ngựa, tương đương với khối lượng 15,5022gam.

Trong quá trình điều tra Thái Xuân T khai số lượng ma túy nói trên do bị cáo đặt mua của một người phụ nữ tên H1, nhưng T không biết nhân thân, lai lịch của người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh làm rõ nhưng chưa có kết quả. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ nếu đủ căn cứ thì xử lý sau.

Đối với Hồ Tấn H và anh Trần Như V cùng đi đến bến xe Buôn Hồ để lấy hộ thùng Cát tông có chứa ma túy bên trong cho bị cáo Lê Thị Th. Tuy nhiên cả H và V không biết bên trong thùng hàng có cất giấu ma túy. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý đối với anh Hồ Tấn H và anh Trần Như V là có căn cứ.

Đối với chị Phạm Thị Hồng Â, là chủ tài khoản 223110101000056 đăng ký tại Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam mà bị cáo Th đã chuyển số tiền 15.900.000đ để mua ma túy. Tuy nhiên quá trình điều tra chị Â khai rằng vào khoảng giữa tháng 3 năm 2021, chị Â đến tỉnh Bình Dương thăm bạn thì gặp một người phụ nữ không rõ nhân thân lai lịch nhờ chị Â cho mượn số tài khoản để chuyển tiền vào nên chị Â đồng ý cung cấp số tài khoản của mình cho người này sau đó có người chuyển số tiền 15.900.000đ vào tài khoản của mình, thì chị Â đã lấy số tiền 15.900.000đ đưa cho người phụ nữ này, còn chị Â không biết mục đích của việc chuyển tiền và chị Â cũng không quen biết Th. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý đối với chị Â là có căn cứ.

Đối với anh Nguyễn Thượng NH (là tài xế); anh Lê Hữu Th (là phụ xe) và chị Lê Thị Minh T (là nhân viên) của Nhà xe Thanh Hà. Khi nhận và giao hàng anh NH, anh Th và chị T không biết bên trong thùng hàng có cất giấu ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là có căn cứ.

Đối với chiếc điện thoại di động Nhãn hiệu Iphone 6s, màu vàng có gắn sim số 0947522221 mà bị cáo Lê Thị Th, sử dụng làm phương phạm tội. Trong quá trình bỏ trốn Th đã bán cho một người qua đường (không rõ nhân thân lai lịch), còn sim số “0947522221” bị cáo đã vứt bỏ. Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ, xử lý được.

[7] Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; các điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 01 thùng giấy Cattong, màu đỏ và nâu vàng, có ký hiệu “Vibook”, trên thùng có ghi chữ “BH 0947522221 Th”, bên trong có một số đồ chơi trẻ em bằng nhựa như: Nồi, chén bát, ấm nước, lon Cococola, bàn, ghế, đây là các vật dụng liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng và khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 14,888 gam loại Ketamine và 11,1923gam mẫu viên nén màu vàng hình con ngựa còn lại sau giám định.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Nhãn hiệu Iphone 6 plus, màu vàng, số Imei: 354390064561860, có gắn sim số 0868854859 của Thái Xuân T. Đây là phương tiện Thành sử dụng vào việc phạm tội.

Chấp nhận CQCSĐT công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại cho chị Bùi Thị Trà G 01 xe Môtô, nhãn hiệu Honda, số loại, AIR BLADE, màu, Xám Bạc; biển số 47E1-342.14, số máy, JF63E2049653; số khung 6328HZ041695. Đây là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị Trà G.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Thái Xuân T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 22/3/2021.

- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thị Th 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 15/5/2021.

Các biện pháp tư pháp: Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; các điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 01 thùng giấy Cattong, màu đỏ và nâu vàng, có ký hiệu “Vibook”, trên thùng có ghi chữ “BH 0947522221 Th”, bên trong có một số đồ chơi trẻ em bằng nhựa như: Nồi, chén bát, ấm nước, lon Cococola, bàn, ghế, đây là các vật dụng liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng và khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 14,888 gam loại Ketamine và 11,1923gam mẫu viên nén màu vàng hình con ngựa còn lại sau giám định.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Nhãn hiệu Iphone 6 plus, màu vàng, số Imei: 354390064561860, có gắn sim số 0868854859 của Thái Xuân T. Đây là phương tiện Thành sử dụng vào việc phạm tội.

Chấp nhận CQCSĐT công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại cho chị Bùi Thị Trà G 01 xe Môtô, nhãn hiệu Honda, số loại, AIR BLADE, màu, Xám Bạc; biển số 47E1-342.14, số máy, JF63E2049653; số khung 6328HZ041695. Đây là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị Trà G.

(Có đặc điểm nhu biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2021).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Các bị cáo Thái Xuân T, Lê Thị Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2021/HSST

Số hiệu:25/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về