Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 249/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

 BẢN ÁN 249/2021/HSST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 6 năm 2021 tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 259/2021HSST ngày 21 tháng 5 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 229 /2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn T, sinh ngày 25/01/1981.

ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 14, phường Phan Đình Ph, thành phố Thái Ng, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Văn Ng và con bà Nguyễn Thị H (Đều đã chết); gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ bảy. Vợ, con chưa có.

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: Tại quyết định số 147/2018/QĐ-TA ngày 06/6/2018, Tòa án nhân dân thành phô Thái Nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 17 tháng. Chấp hành xong ngày 10/10/2019.

- Nhân thân:

+ Tại quyết định số 184/QĐ-XPHC ngày 23/11/2006, Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 150.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành nộp phạt ngày 29/1 1/2006.

+ Tại quyết định số 84/QĐ-XPHC ngày 18/7/2013, Công an phường Phan Đình Ph, thành phố Thái Ng xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành nộp phạt ngày 18/7/2013.

+ Tại quyết định số 7308/QĐ-XPHC ngày 17/10/2016, Công an thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành nộp phạt ngày 11/11/2016.

+ Tại bản án số 283/2017/HSST ngày 08/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 29/12/2017. Chấp hành xong án phí ngày 23/8/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/02/2021 đến nay (Có mặt tại phiên tòa )

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1960 Địa chỉ: Tổ 11, phường Quang Tr, thành phố Thái Ng, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 12 giờ 00 phút ngày 23/02/2021, tổ công tác Công an phường Quang Trung phối hợp với đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên, làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố Đồng Tâm, phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên thì phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông tự khai là Nguyễn Văn T. Quá trình kiểm tra, T tự giác lấy từ túi quần phía trước bên trái T đang mặc 01 xi lanh bằng nhựa bên trong chứa chất bột màu trắng. T khai là Heroine của T mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn T có khối lượng 0,163 gam cho vào bì niêm phong ký hiệu T1 gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 511/KLKTHS ngày 03/3/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu T1 là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng: 0,163 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 23/02/2021, T đi bộ từ nhà ở tổ 14, phường Phan Đình Ph, thành phố Thái Ng đến khu vực cầu Gia Bảy thuộc phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên mục đích để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua 01 gói Heroine của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch địa chỉ) với giá 100.000 đồng, Sau đó, T đổ số Heroine vào trong xilanh đã mua từ trước, rồi cất giấu vào túi quần phía trước bên trái T đang mặc và đi tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an phường Quang Trung phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Nguyễn Văn T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa chất ma túy.

- 01 (một) bì niêm phong bên trong chứa 01 xilanh bằng nhựa.

Hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 262/CT-VKSTPTN ngày 20 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Xét nhân thân và điều kiện kinh tế của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa chất ma túy. 01 bì niêm phong bên trong chứa 01 xi lanh bằng nhựa.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến cũng không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Do vậy, Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 12 giờ 00 phút ngày 23/02/2021, tại khu vực tổ dân phố Đồng Tâm, phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ 0,163 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Quang Trung phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo đã biết ma túy là chất cấm, được Nhà nước quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân với khối lượng Heroine là 0,163 gam. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy, ...thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm:

…….

c, Heroine …có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam .

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi. Do vậy, hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu, đã bị đưa ra xét xử và phải chấp hành bản án của Tòa án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành lương thiện. Hơn nữa, bị cáo lại là người có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội, điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật kém. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cho bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để bị cáo biết tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người lương thiện. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa ma túy và 01 bì niêm phong bên trong chứa 01 xi lanh nhựa.

[6]Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[8] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ bị cáo khai đã mua của 01 người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực đầu cầu Gia Bảy thuộc phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/02/2021.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong chứa chất ma túy và 01 bì niêm phong bên trong chứa 01 xi lanh bằng nhựa.

(Biên bản giao nhận vật chứng số 394 ngày 20/5/2021giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an thành phố Thái Nguyên)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 249/2021/HSST

Số hiệu:249/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về