Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 246/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 246/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 253/2023/TLST- HS ngày 13/9 /2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 252/2023/QĐXXST- HS ngày 15/9/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vừ Nềnh V, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1973, tại Đ.

Nơi cư trú: Bản S T, xã N T, huyện Đ B, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vừ Chồng D (Đã chết) và bà: Sùng Thị D (Đã chết); Vợ: Ly Thị V, sinh năm 1973 và 04 con, con lớn nhất sinh năm 1991, con nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/3/2012 bị TAND huyện Đ B xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”, ngày 21/8/2013 chấp hành xong, nay đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2023 cho đến nay. "Có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 18/7/2023, bị cáo đi bộ từ nhà đến khu vực đầu Bản S T, xã N T, huyện Đ B với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và mua được 05 gói Heroine và 01 túi ni lon màu hồng bên trong có 15 viên Methamphetamine với giá tiền là 300.000đ của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 60 tuổi (không biết tên và địa chỉ). Sau đó bị cáo cất số ma túy vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Sau đó bị cáo cho 05 viên Methamphetamine vào chiếc lọ nhựa màu đỏ, có nắp đậy màu trắng, 10 viên Methamphetamine còn lại bị cáo gói lại như cũ, còn 05 gói Heroine bị cáo cất vào trong lọ nhựa màu trắng, có nắp đậy màu trắng, sau đó bị cáo cất giấu tất cả 02 lọ nhựa chứa Heroine và Methamphetamine cùng gói chứa 10 viên Methamphetamine vào trong một túi thổ cẩm tự tạo có khóa kéo rồi giấu tại nền nhà cạnh cửa ra vào của gia đình. Hồi 09 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo lấy lọ nhựa có 05 viên Methamphetamine ra để trên bàn chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Đ B phối hợp với tổ 5 kế hoạch 1266 Công an tỉnh Đ, Đồn biên phòng Mường Nhà – Bộ chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh Đ phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 05 viên Methamphetamine do bị cáo để trên bàn.

Hồi 11 giờ 10 phút cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo, qua khám xét thu giữ dưới nền nhà cảnh cửa ra vào một túi thổ cẩm tự tạo có khóa kéo, bên trong có một túi ni lon màu hồng có chứa 10 viên Methamphetamine và 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 05 gói Heroine (02 gói ni lon màu trắng và 03 gói ni lon màu hồng).

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 18/7/2023 đã xác định:

- Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 1,03 gam;

- Số viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 1,53 gam;

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 1189/KL-KTHS ngày 25/7/2023, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vừ Nềnh V gửi giám định là Heroine;

- Mẫu các viên nén màu hồng thu giữ của Vừ Nềnh V gửi giám định là Methamphetamine;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 195/CT-VKSĐB ngày 13/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Vừ Nềnh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/Bộ luật hình sự 2015, Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,88 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 1,34 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định và 02 lọ nhựa, 01 túi thổ cẩm tự tạo có khóa. Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo được miễn án phí HSST. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và Luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, cho tôi xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 18/7/2023 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo đang chuẩn bị sử dụng thì bị bắt quả tang cùng 05 gói Heroine có khối lượng 1,03 gam và 15 viên Methamphetamine có khối lượng 1,53 gam, tổng khối lượng hai chất ma túy là 2,56 gam. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần chấp nhận.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Đ B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo mua của người đàn ông khoảng 60 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.

[7]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[8]. Vật chứng: 0,88 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 1,34 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định và 02 lọ nhựa, 01 túi thổ cẩm tự tạo có khóa cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS:

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Điều 38/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Vừ Nềnh V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Vừ Nềnh V 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 18/7/2023.

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn án phí HSST.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,88 gam Heroine hoàn lại sau giám định, 1,34 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định và 02 lọ nhựa, 01 túi thổ cẩm tự tạo có khóa.

(Vật chứng đã được công an huyện Đ B chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B ngày 13/9/2023).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333/BLTTHS; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 246/2023/HS-ST

Số hiệu:246/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về