TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2024/TLST- HS ngày 29 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/QĐXXST- HS ngày 06/3/2024 đối với bị cáo:
Sồng A M tên gọi khác: Không, giới tính: Nam, sinh ngày 25 tháng 7 năm 1982, tại huyện B , tỉnh S; Nơi cư trú: Bản H , xã M , huyện S , tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc:
Mông; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn, đảng: Không; Số định danh cá nhân: 014082012360; con ông: Sồng Pó T (đã chết); con bà Hạng Thị S (đã chết) vợ là: Hạng Thị P , sinh năm 1982; có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không có; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2023 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Vừ Vả C - Chuyên viên huyện Đoàn, huyện S, trú tại bản Nậm Lạnh, xã Nậm Lạnh, huyện S, tỉnh S, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 27/11/2023, Sồng A M , đến khu vực biên giới thuộc bản Huổi Pá, xã Mường Lạn mua được 01 cục nhựa thuốc phiện màu nâu đen với số tiền 20.000 đồng của một người đàn ông không quen biết, mua được thuốc phiện M mang về nhà cất giấu để sử dụng dần. Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 28/11/2023 M mang số thuốc phiện mua được ra sử dụng tại nhà ở bản Huổi Pá, xã Mường Lạn thì bị tổ công tác Công an huyện S phát hiện lập Biên bản bắt quả tang hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, thu giữ tang vật là 01 cục nhựa màu nâu đen nghi là thuốc phiện và 01 bộ bàn đèn dùng để sử dụng thuốc phiện.
Ngày 29/11/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S đã mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định vật chứng; cục nhựa màu nâu đen trong giấy nilon màu hồng có khối lượng 2,18 gam, trích 0,84 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu M, còn lại 1,34 gam lưu kho, ký hiệu M1 Bản kết luận số 2570/KL- KTHS ngày 30/11/2023 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh S, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy, loại thuốc phiện, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,84 gam.
Bản Cáo trạng số 11/CT-VKSSC ngày 28 tháng 2 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh S, truy tố bị cáo Sồng A M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo M thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố, không khai báo gì thêm.
Tranh luận tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S trình bày luận tội, giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Sồng A M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối Sồng A M ; Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì thư đã được niêm phong kín, bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng đựng ban đầu, 01 túi nilon màu trắng chứa 1,34 gam nhựa thuốc phiện ký hiệu M1, 01 bộ bàn đèn.
Về nguồn gốc 2,18 gam ma túy là thuốc phiện bị cáo khai do mua của một người không quen biết, không rõ địa chỉ, nên không có căn cứ để xử lý người đã bán ma túy cho bị cáo.
Bị cáo Măng nhất trí với luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo, không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 28/11/2023 Sồng A M đã Tàng trữ 2,18 gam ma túy, loại thuốc phiện, mục đích để sử dụng cho bản thân.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 28 tháng 11 năm 2023; Biên bản niêm phong, cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 2570 ngày 30/11/2023, lời khai của người chứng kiến, vật chứng của vụ án là 2,18 gam ma túy, loại thuốc phiện, lời khai nhận của bị cáo.
Từ các căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.
[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội:
Hành vi Tàng trữ trái phép 2,18 gam ma túy loại thuốc phiện là nghiêm trọng, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó đã gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách thống nhất của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác.
[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không có Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xét luận tội của Viện kiểm sát huyện S. Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ; Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp và cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.
[5] Bị cáo Sồng A M đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy thời gian tạm giam còn dưới 45 ngày, cần ra Quyết định tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có khả năng thi hành, nên không áp dụng.
[7] Về xử lý vật chứng: Vật chứng còn lại 01 phong bì thư đã được niêm phong kín, bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng đựng ban đầu, 01 túi nilon màu trắng chứa 1,34 gam thuốc phiện ký hiệu M1, 01 bộ bàn đèn là vật chất cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo là dân tộc thiểu số, nơi cư trú có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về tội danh: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Sồng A M , phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Sồng A M 16 (Mười Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (28/11/2023).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì thư đã được niêm phong kín, bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng đựng ban đầu, 01 túi nilon màu trắng chứa 1,34 gam thuốc phiện ký hiệu M1, 01 bộ bàn đèn đã qua sử dụng; Toàn bộ vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 2 năm 2024 giữa Công an huyện và Chi cục thi hành án huyện S, tỉnh S.
4. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sồng A M .
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 19/3/2024.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2024/HS-ST
Số hiệu: | 24/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về