Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng và tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:

Bùi Hữu T, sinh ngày 02/6/1986 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Phố H, phường Đ quận H, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Bùi Hữu N và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ là Nguyễn Thu T, có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án: 01, Tại bản án số 04/2021/HS- ST ngày 26/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; nhân thân: 02 Tiền án đã xóa án tích: Ngày 27/3/2014, bị Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Ngày 24/01/2017, bị Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; bị cáo bị tạm giữ ngày 13/6/2023 đến ngày 16/6/2023 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng:Anh Nguyễn Trọng H; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Đỗ Văn C; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do thường xuyên sử dụng ma túy nên khoảng 09 giờ 30 phút ngày 13/6/2023, Bùi Văn T bắt taxi ra khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 8.000.000 đồng được 01 túi nilon ma túy loại Kentamine mục đích để sử dụng. T cất giấu số ma túy trên vào quần lót đang mặc rồi đi ra thị trấn Cát Bà để giải quyết công việc cá nhân. Khi T đang ở trên phà biển số hiệu HP-X tại khu vực Bến Gót, tổ dân phố Đôn L, thị trấn Cát Hải, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, thì bị lực lượng Phòng chống ma túy của Bộ tư lệnh Cảnh sát biển phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tang vật như đã nêu trên. Khi khám xét chỗ ở của T, cơ quan Cảnh sát biển phát hiện và thu giữ 02 gói ma túy, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy trong phòng ngủ của T. Bị cáo khai nhận 02 gói ma túy loại Kentamine thu giữ trong phòng ngủ là ma túy, bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, Lê Chân, Hải Phòng cách thời điểm bị bắt khoảng 10 ngày với giá 3.000.000 đồng. Số ma túy trên bị cáo đã lấy ra sử dụng một ít nhưng do ma túy không phê nên bị cáo không sử dụng tiếp mà cất giấu tại ngăn kéo kệ để đồ ở phòng ngủ của mình. Còn 01 bộ dụng cụ sử dụng và các vật dụng sử dụng ma túy được bị cáo mua ở trên mạng.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm ma túy, 01 bộ sử dụng ma túy, 01 bình gas mini, 01 bật lửa khò, 01 nỏ thủy tinh.

Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt, tuy nhiên tại cơ quan điều tra đã khai: Vào khoảng 11giờ 00 phút ngày 13/6/2023, khi đang làm việc ở trên phà có chứng kiến lực lượng Cảnh sát biển và Công an huyện Cát Hải bắt quả tang Bùi Hữu T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lực lượng chức năng đã thu giữ của T 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng, T khai là ma túy Kentamine, mua về để sử dụng cho bản thân. Người làm chứng chứng kiến toàn bộ quá trình niêm phong tang vật và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số 509/KL-KTHS(MT) ngày 14/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng mẫu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 21,92 gam, là loại Kentamine. Tinh thể màu trắng mẫu M2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 15,0 gam là loại Kentamine.

Bản Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 25/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã nêu, xác nhận việc điều tra, truy tố đối với bị cáo là không oan sai; trong quá trình điều tra, bị cáo không bị ép buộc khai báo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo có hành vi cất giữ trái phép ma túy với khối lượng 36,92 gam là loại Kentamine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo có 01 tiền án năm 2021 chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên Tòa đã tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có bà nội là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có 03 bác ruột là Liệt sỹ, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm l khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Bùi Hữu T từ 06 đến 07 năm tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, vì bị cáo không có tài sản riêng, hoàn cảnh gia đình khó khăn.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa ma túy hoàn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 bình gas mini, 01 bật lửa khò, 01 nỏ thủy tinh.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát; bị cáo biết hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật và rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1 của Bộ tư lệnh Cảnh sát biển, Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với Cáo trạng, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã làm rõ: Bị cáo là người nghiện ma túy, khoảng 11 giờ 00 phút ngày 13/6/2023, trên phà biển số hiệu HP-X, huyện Cát Hải, bị cáo bị phát hiện, bắt quả tang về hành vi cất giữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi khám xét chỗ ở của bị cáo lực lượng chức năng đã thu giữ được thêm 02 gói ma túy và một bộ dụng cụ sử dụng ma túy, một số vật dụng phục vụ cho việc sử dụng ma túy. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, thì tinh thể màu trắng thu giữ được của bị cáo là ma túy, có khối lượng 21,92 gam, là loại Kentamin; tinh thể màu trắng thu được tại chỗ ở của bị cáo là ma túy có khối lượng 15,0 gam là loại Kentamine.

[3] Như vậy, hành vi cất giữ trái phép 36,92 gam ma túy nêu trên của bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, chất gây nghiện. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng trên là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

- Về tình tiết định khung hình phạt:

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 04/2021/HS-ST ngày 26/01/2021, của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng đã xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tính đến ngày xét xử tiền án này chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: bà nội là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có 03 bác ruột là Liệt sỹ. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật.

[8] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền án, bản án số 56 ngày 27/3/2014, Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và 24 tháng tù về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Bản án số 27/2017/HSST ngày 24/01/2017 của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối với hai bản án này, bị cáo tuy đã được xóa án tích nhưng cần đánh giá là người có nhân thân xấu, khó giáo dục tại cộng đồng. Do đó, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng hình phạt nghiêm khắc mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[9] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản" do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[10] Chất ma túy còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Đối với bộ dụng cụ và các vật dụng bị cáo dùng để sử dụng ma túy là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Về các vấn đề khác:

[11] Đối với người phụ nữ và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết, quá trình điều tra cũng không xác định được cụ thể tên, tuổi và địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở lập hồ sơ xử lý là có căn cứ.

- Về án phí hình sự:

[12] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

- Về quyền kháng cáo:

[13] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm l khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Hữu T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 13/6/2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong chất ma túy hoàn lại sau giám định thu giữ của bị cáo, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 bình gas mini, 01 bật lửa khò, 01 nỏ thủy tinh. Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 28/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải.

Về án phí hình sự: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về