TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 24/2021/HS-PT NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 30/2021/TLPT - HS ngày 26 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Anh D do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2021/HS-ST, ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Bắc Kạn.
* Bị cáo bị kháng nghị:
Nguyễn Anh D (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 02 tháng 3 năm 1985 tại huyện N, tỉnh Bắc Kạn; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu 2, xã V, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Thế V (đã chết) và bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1960; Bị cáo có vợ là Triệu Thị L, sinh năm 1989 (đã ly hôn) và 01 con, sinh con 2011. Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Bắc Kạn.
(Những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không liên quan đến kháng nghị - Không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ 30 phút, ngày 31/5/2021 tổ công tác Công an huyện NS đang thực hiện nhiệm vụ tại Khu 2, xã V, huyện N, tỉnh Bắc Kạn thì phát hiện bắt quả tang Nguyễn Anh D, sinh năm 1985, trú tại Khu 2, xã V, huyện NS, tỉnh Bắc Kạn đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người. Tang vật thu giữ, tạm giữ gồm: 01 (một) gói ma túy (Heroine) có khối lượng (trọng lượng) là 4,36 gam (bốn phẩy ba sáu gam) được gói bằng 03 lớp nilon trong suốt, niêm phong trong phong bì kí hiệu M1; 02 (hai) điện thoại di động, trong đó một điện thoại màn hình cảm ứng, một điện thoại bàn phím bấm, niêm phong trong phong bì ký hiệu M2; 01 (một) ví giả da màu vàng bên trong có số tiền 5.690.000 đồng (Năm triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng) tiền do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành, niêm phong trong phong bì ký hiệu M3; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA TAURUS biển kiểm soát 97F7- xxxx kèm một chìa khóa xe.
Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NS đã tiến hành mở niêm phong phong bì ký hiệu M1, cân tịnh khối lượng và thử phản ứng phát hiện chất ma túy, sau đó niêm phong lại toàn bộ số ma túy trong phong bì ký hiệu A1 để gửi trung cầu giám định theo quy định. Tại bản kết luận giám định số104/KTHS-MT ngày 05/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 4,36g (Bốn phẩy ba sáu gam).
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Anh D khai nhận số ma túy mà cơ quan Công an thu giữ ngày 31/5/2021 là ma túy (Heroine) của D mua về để sử dụng cho bản thân, cụ thể: vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 31/5/2021 Dũng đến nhà Hoàng Tư D1, sinh năm 1986, cùng trú tại Khu 2, xã VT, huyện NS, tỉnh BK rủ D đi B chơi, sau đó D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97F7-xxxx chở D1 ngồi sau đi lên xã BV, huyện NS. Hai người đến thông CL, xã BV khu vực ngã ba đường rẽ đi xã CĐ thì dừng lại, D1 xuống xe, còn D một mình điều khiển xe theo hướng vào xã CĐ đi được khoảng 01 km thì gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ họ, tên, địa chỉ) và hỏi mua với người này được 01 (một) gói ma túy (Heroine) với số tiền là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, D cất gói ma túy trong túi quần đằng sau bên phải đang mặc trên người rồi quay lại đón D1 ở chỗ cũ, rồi hai người đi về, khi đến sân nhà D thuộc Khu 2, xã VT, D1 đi vào trong nhà, còn D đang đứng tại sân thì bị tổ công tác Công an huyện NS kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật. D không nói cho ai biết việc mua bán, cất giấu ma túy của bản thân, trước và sau khi khi D mua và cất giấu ma túy D1 không biết.
Anh Hoàng Tư D1 xác nhận: Khi D đến nhà rủ đi Bằng Vân chơi D1 đồng ý. Lúc đi và về D đều là người điều khiển xe mô tô, còn D1 ngồi sau, khi đến ngã ba tại thôn CL, xã BV thì D1 xuống xe, còn D điều khiển xe đi tiếp vào đường liên xã không biết đi gặp ai, làm gì, khoảng 15 phút sau D quay lại đón. Khi về đến sân nhà D1 tại Khu 2, xã VT, D1 đi vào nhà, còn D đứng ngoài sân cạnh xe mô tô thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện 01 (một) gói ma túy tại túi quần đằng sau bên phải D đang mặc trên người, khi Công an lập biên bản D1 mới biết đó là gói ma túy của D mua về sử dụng, trước và sau khi đi Bằng Vân chơi D1 đều không biết việc mua bán cất giấu ma túy của D.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2021/HS-ST, ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ng.S, tỉnh BK đã áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh D 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 31/5/2021.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BK kháng nghị một phần bản án sơ thẩm số 17/2021/HSST, ngày 14/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện NS, tỉnh BK, đề nghị Cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Áp dụng điểm o, khoản 2, Điều 249 của Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung đã kháng nghị và đề nghị Cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, vì bị cáo Nguyễn Anh D sau khi chấp hành xong hình phạt 78 tháng tù của bản án số 04/2014/HSST, ngày 04/6/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn vào ngày 15/02/2019 thì đến ngày 31/5/2021 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới. Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 70/BLHS xác định bị cáo chưa được xóa án tích, do vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp "tái phạm nguy hiểm" quy định tại điểm o, khoản 2 Điều 249/BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 06 năm đến 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 31/5/2021.
Tại phiên tòa, sau khi được nghe HĐXX giải thích về nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát và các quy định của pháp luật về xóa án tích, bị cáo Nguyễn Anh D nhất trí với nội dung kháng nghị và xác định nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát là đúng, bị cáo chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BK phù hợp với quy định Bộ luật Tố tụng Hình sự về chủ thể và thời hạn kháng nghị nên có căn cứ để HĐXX xem xét.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 31/5/2021 bị cáo Nguyễn Anh D đã có hành vi tàng trữ 4,36 gam (Bốn phảy ba mươi sáu gam) ma túy (loại Hêroin), mục đích để sử dụng cho bản thân và đã bị tổ công tác Công an huyện NS phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.
Với hành vi nêu trên của bị cáo, Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Anh D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo Điều 249 của BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn, HĐXX xét thấy:
Về nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2011/HSST, ngày 19/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện NSxử phạt bị cáo 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 54 tháng về tội "Cố ý gây thương tích"; Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2014/HSST, ngày 04/6/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xử phạt 48 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tổng hợp với hình phạt 30 tháng tù cho hưởng án treo của Bản án số 08/2011/HSST, ngày 19/4/2011 buộc Nguyễn Anh D phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 78 tháng tù. Ngày 15/02/2019, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định khác của bản án.
Ngày 31/5/2021 bị cáo Nguyễn Anh D đã có hành vi mua và tàng trữ trái phép 01 (một) gói ma túy có trọng lượng 4,36 gam (Bốn phảy ba mươi sáu gam).
Tại khoản 2, Điều 73/BLHS quy định "Người bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính …của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết hiệu lực thi hành". Đồng thời tại điểm c, khoản 2 Điều 70/BLHS quy định: "Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính … người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án và không phạm tội mới trong thời hạn sau đây: …c, 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 05 năm đến 15 năm…" Do vậy bị cáo Nguyễn Anh D bị Tòa án nhân dân huyện NS tuyên phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Cố ý gây thương tích" tại bản án số 08/2011/HSST, ngày 19/4/2011 chưa được xóa án tích bị cáo lại tiếp tục phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và bị Tòa án nhân dân tỉnh BK xử phạt 48 tháng tù tại bản án số 04/2014/HSST, lần phạm tội của bị cáo này thuộc trường hợp "tái phạm".Trong trường hợp này thời hạn xóa án tích đối với bản án số 08/2011/HSST được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính của bản án số 04/2014/HSST, ngày 04/6/2014.
Bản án số 04/2014/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã tổng hợp hình phạt của bản án số 08/2011/HSST buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 78 tháng tù (06 năm 06 tháng tù). Kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định khác của bản án số 04/2014/HSST thì bị cáo phải không phạm tội mới trong thời hạn 03 năm mới được xóa án tích. Tuy nhiên từ ngày 15/02/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt 78 tháng tù đến ngày 31/5/2021 là bị cáo đã phạm tội trong khoảng thời gian 02 năm, 03 tháng, 26 ngày, chưa đủ thời hạn không phạm tội mới trong thời hạn 03 năm theo điểm c, khoản 1 Điều 70/BLHS nên bị cáo chưa được xóa án tích, nhưng Cấp sơ thẩm xác định kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính của bản án số 04/2014/HSST (ngày 15/02/2019) đến ngày phạm tội mới 31/5/2021 bị cáo đã được xóa án tích nên đã xét xử bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c, khoản 1 Điều 249/BLHS là không đúng quy định của pháp luật. Do vậy cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn để sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điểm o, khoản 2 Điều 249/BLHS với tính tiết định khung là "Tái phạm nguy hiểm" và tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51/BLHS.
Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm đối với bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người công dân tốt mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện sự coi thường kỷ cương pháp luật của Nhà nước; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ, do vậy cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Án phí: Vụ án do Viện kiểm sát kháng nghị nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a, khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BK, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2021/HSST, ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện NS, tỉnh BK.
Áp dụng điểm o, khoản 2, Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh D 06 (Sáu) năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 31/5/2021.
2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 24/2021/HS-PT
Số hiệu: | 24/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về