TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 235/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2023, tại trụ Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Toà án nhân dân thành phố Thái Bình mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 222/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2023/QĐXX-HS ngày 16 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Hoàng Văn Q, sinh ngày 08/9/1986; nơi sinh: Tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn ĐH, xã P, thành phố B, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Q và bà Trần Thị S; đã ly hôn chị Phạm Thị M và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 113QĐ/XPVPHC ngày 07/3/2007 của Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt 250.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/8/2023 đến ngày 13/8/2023 chuyển tạm giam cho đến nay, trích xuất có mặt.
* Người chứng kiến:
- Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1965, (vắng mặt);
Nơi cư trú: Ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình.
- Ông Phạm Duy H2, sinh năm 1961, (vắng mặt);
Nơi cư trú: Số nhà 06, đường C, tổ 08, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 6 giờ 45 phút, ngày 07/8/2023, tại khu vực Ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình phát hiện bị cáo Hoàng Văn Q có biểu hiện liên quan đến ma túy nên yêu cầu bị cáo dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của những người chứng kiến, bị cáo tự giác đưa từ lòng bàn tay trái của bị cáo ra 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ giao nộp cho tổ công tác, tổ công tác mở gói giấy kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục nên niêm phong vào một phong bì. Bị cáo Q khai nhận đó là ma túy, loại Heroine, nguồn gốc của gói ma túy là do trước đó khoảng 06 giờ cùng ngày, Hoàng Văn Q đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết từ nhà đến khu vực ngõ 02, đường H, tổ 11, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình thì xuống xe trả tiền xe ôm rồi đi bộ một đoạn thì gặp và mua được của một người nam giới nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 200.000 nghìn đồng, bị cáo Q cầm Heroin trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang. Tổ công tác yêu cầu bị cáo Q và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình để làm việc. Tại trụ sở Công an phường, tổ công tác kiểm tra người bị cáo Q nhưng không phát hiện, thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản quản lý, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 1193/KL-KTHS ngày 11/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật quản lý của Hoàng Văn Q trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy; loại Heroin (Heroine); có khối lượng 0,1619 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm mười chín gam)”.
Tại cơ quan điều tra những người chứng kiến ông Nguyễn Thanh H, ông Phạm Duy H2 khai như sau: Khoảng 06 giờ 45 phút ngày 07/8/2023, tại khu vực Ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình, bị cáo Hoàng Văn Q đưa từ lòng bàn tay trái của bị cáo ra 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ cho tổ công tác của Công an phường Quang Trung, tổ công tác mở gói giấy kiểm tra bên trong gói có chứa chất bột màu trắng dạng cục nên niêm phong vào một phong bì. Tại trụ sở Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tổ công tác kiểm tra người bị cáo nhưng không phát hiện được gì.
Cáo trạng số 229/CT - VKSTPTB ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Hoàng Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Hoàng Văn Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo.
Kiểm sát viên luận tội: Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Kiểm sát viên phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ, xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 07/8/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị xử lý vật chứng bằng hình thức: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định.
- Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn Q phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Hoàng Văn Q xác định cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên bị cáo không trình bày lời bào chữa, không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, mức hình phạt và các nội dung khác do Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên và Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đó là các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh cho hành vi phạm tội của bị cáo. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên bị cáo không khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.
[2] Căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, đồng thời còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản Kết luận giám định; Lời khai của người chứng kiến; cùng các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh về hành vi phạm tội của bị cáo thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 06 giờ 45 phút, ngày 07/8/2023, tại khu vực Ngõ 02, đường H, tổ 04, phường Q, thành phố B, tỉnh Thái Bình, bị cáo Hoàng Văn Q có hành vi tàng trữ trái phép trên người của bị cáo 01 gói ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,1619 gam mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình bắt quả tang. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, lẽ ra bị cáo phải nhận thức rõ các tác hại do ma túy gây ra cũng như phải hiểu được các quy định của pháp luật về việc nghiêm cấm đối với mọi hành vi liên quan đến ma túy, song để đạt được nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy. Xét, hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Điều 249 - Tội tàng trữ trái phép chất ma túy: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:a) ...; c)Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ...”. Như vậy, hành vi của bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt của Điều luật là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy là nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi đó đã cố ý xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe của con người cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Xét nguyên nhân và điều kiện thực hiện hành vi phạm tội là để đạt được nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo không tuân thủ pháp luật, vì vậy cần xét xử bị cáo nghiêm minh.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu nên cần xem xét khi lượng hình; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình nên khi áp dụng hình phạt bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là phạt tù có thời hạn - buộc bị cáo cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của 01 người nam giới không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý người bán ma tuý cho bị cáo là phù hợp.
[7]Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn Q phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hoàng Văn Q có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50;
khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 07/8/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy loại Heroine thu của bị cáo Hoàng Văn Q hoàn lại sau giám định và bao gói.
Vật chứng và tài sản khác có đặc điểm như ghi tại: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 7/8/2023; Biên bản niên phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, ngày 14/11/2023.
4. Án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Án tuyên công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/11/2023.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 235/2023/HS-ST
Số hiệu: | 235/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về