Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN – TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2024/HSST ngày 26 tháng 01 năm 2024, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 đối với:

+ Bị cáo: Trần Xuân H, sinh ngày 21/12/2005; nơi cư trú: Thôn Ngọc M, xã Diễn H, huyện Diễn Ch, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tr và bà Nguyễn Thị V; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: không; hiện đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Người đại diện cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Ngọc M, xã Diễn H, huyện Diễn Ch, tỉnh Nghệ An; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phạm Thị Nhàn- Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Bị hại:

+ Anh Bùi Văn L, sinh ngày 28/2/2005; nơi ĐKHKTT: Xóm Đ, xã Văn Ngh, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình; chỗ ở: Tổ dân phố Ngũ N, phường Bạch Th, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

+ Anh Bùi Đức Ph, sinh ngày 23/5/2006; nơi ĐKHKTT: Xóm Đ, xã Văn Ngh, huyện Lạc S, tỉnh Hòa Bình; chỗ ở: Tổ dân phố Ngũ N, phường Bạch Th, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam (vắng mặt). Người giám hộ: Bà Nguyễn Thị Ph- Chủ tịch công đoàn công ty Gemtek Việt Nam; địa chỉ: Khu công nghiệp Đồng Văn 2, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Bùi Văn Đ, sinh năm 1999; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Xuân H là công nhân thời vụ Công ty TNHH Gemtek Việt Nam – KCN Đồng Văn, thuộc TDP Ngọc Th, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam.

Khoảng 08 giờ ngày 09/11/2023, H đến Công ty TNHH Gemtek Việt Nam làm việc. Đến khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày, H đẩy xe chở vỏ thùng đựng các linh kiện điện tử từ xưởng 97 ra để tại sân công ty, rồi quay lại tủ đồ cá nhân của mình để thay quần áo. Trong lúc thay quần áo, quan sát thấy xung quanh không có ai, bản thân đang nợ nần nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong tủ đồ cá nhân của các công nhân. Sau đó, H lấy chìa khóa ngăn tủ đồ cá nhân C068 của mình mở ngăn tủ đồ bên tay trái cạnh ngăn tủ đồ của mình thì không mở được. H đi đến mở ngăn tủ thứ 02 thì không khóa nhưng bên trong chỉ có 01 đôi dép nên H không lấy. H tiếp tục đi đến ngăn tủ thứ 03 là ngăn C082, cắm chìa khóa của mình vào vặn mở thì mở được. Thấy bên trong ngăn tủ này có để 01 đôi dép và 02 chiếc điện thoại di động, gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng, bên trong lắp sim số thuê bao 0399117X, ốp lưng điện thoại cứng trong suốt của anh Bùi Đức Ph và 01 điện thoại nhãn hiệu VSMART JOY3 màu xanh, bên trong lắp sim số thuê bao 0366362X, ốp lưng màu xanh nhạt của anh Bùi Văn L, H lấy 02 chiếc điện thoại này rồi khóa cửa ngăn tủ C82 lại. Sau đó, H đem 02 chiếc điện thoại này cất giấu vào ngăn tủ C068 của mình khóa lại rồi đi làm việc tiếp.

Đến khoảng 18h30’cùng ngày, H xin về sớm, ra tủ đồ cá nhân của mình lấy 02 chiếc điện thoại vừa lấy trộm được của anh L và Ph bỏ vào túi quần đang mặc đem về phòng trọ của mình ở TDP Ngũ N, phường Bạch Th, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam. Trên đường về, khi đi qua cầu Ngũ Nội, H tháo sim và ốp lưng của cả 02 điện thoại vừa trộm cắp được vứt đi. Khi về phòng trọ, H thay sim số thuê bao 0395710X của mình vào điện thoại VSMART JOY3 màu xanh của anh Ph để sử dụng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi hết giờ làm việc, anh Ph và anh L cùng ra mở ngăn tủ C082 lấy đồ đi về thì không thấy điện thoại của mình đâu nên đã báo cho Công ty. Sau đó, Công ty đã trình báo cơ quan công an. Đến ngày 10/11/2023, khi được triệu tập đến làm việc, H đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan công an 02 chiếc điện thoại trên.

Vật chứng thu giữ, gồm: 01 điện thoại Iphone 11 Promax màu vàng đồng, số IMEI1: 353896102149774, số IMEI2: 353896102248097, không lắp thẻ sim và bị khóa mật khẩu điện thoại; 01 điện thoại VSMART JOY3, mặt trước màu đen, mặt sau màu xanh đậm, số IMEI1: 351726117549605, số IMEI2: 351726117549613, bên trong lắp sim Viettel, số thuê bao 0395710X và 01 chìa khóa bằng kim loại màu bạc, kích thước (3,2x1,5)cm. Quá trình điều tra xác định 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng là tài sản hợp pháp của anh Bùi Đức Ph và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VSMART JOY3 màu xanh là tài sản hợp pháp của anh Bùi Văn L nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Ph, anh L.

Kết luận định giá số 70/KL-HĐ ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11Promax màu vàng đồng, dung lượng bộ nhớ là 256G có giá 9.500.000đ; 01 điện thoại VSMART JOY3, mặt trước màu đen có giá 750.000đ; 01 ốp lưng điện thoại cứng màu trong suốt có giá 10.000đ; 01 ốp lưng điện thoại màu xanh nhạt có giá 10.000đ; 02 sim có giá 0 đồng. Tổng cộng: 10.270.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Bùi Đức Ph, Bùi Văn L đã nhận lại điện thoại di động bị mất, nay không yêu cầu H phải bồi thường gì.

Cáo trạng số 18/CT-VKS- DT ngày 25/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; các Điều 91; 101 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Xuân H từ 9 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết, tịch thu cho tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa bằng kim loại màu bạc, có KT 3,2 x 1,5 cm; 01 chiếc sim điện thoại của hãng Viettel trên sim điện thoại có mã số 8984 04800 03801 15204 và tuyên án phí đối với bị cáo.

Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo mức án thấp nhất, cho bị cáo được hưởng 09 tháng án treo. Bị cáo và người đại diện đồng ý với quan điểm bào chữa, không bổ sung gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Duy Tiên và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người tham gia tố tụng khác cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 09/11/2023, tại khu vực tủ đồ cá nhân của công nhân trong Công ty TNHH Gemtek Việt Nam – KCN Đồng Văn, thuộc TDP Ngọc Th, phường Duy M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, lợi dụng lúc không có người, Trần Xuân H đã lén lút dùng chìa khoá mở tủ đồ cá nhân của người khác lấy trộm 01 điện thoại Iphone 11 Promax màu vàng, bên trong lắp sim số thuê bao 0399117X, ốp lưng điện thoại cứng trong suốt, của anh Bùi Đức Ph, trị giá 9.510.000đ và 01 điện thoại VSMART JOY3 màu xanh, bên trong lắp sim số thuê bao 0366362X, ốp lưng màu xanh nhạt của anh Bùi Văn L, trị giá 760.000đ ở trong ngăn tủ đồ C082 cất giấu vào ngăn tủ C068 của mình. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, H lấy 02 chiếc điện thoại nêu trên đem về phòng trọ của mình ở TDP Ngũ N, phường Bạch Th, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam. Trên đường về, H tháo sim và ốp lưng của 02 điện thoại này vứt ở khu vực cầu Ngũ Nội. Đến ngày 10/11/2023, khi được triệu tập đến làm việc, H đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan công an 02 chiếc điện thoại đã trộm cắp được. Tổng giá trị tài sản mà Trần Xuân H trộm cắp là 10.270.000đ.

Hành vi nêu trên của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Tại thời điểm phạm tội bị cáo trên 17 tuổi, chưa đủ 18 tuổi nên HĐXX sẽ áp dụng chế định người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Điều 91 và Điều 101 BLHS.

[4] Về hình phạt: Từ nhận định trên nhận thấy, bị cáo là người có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của gia đình và xã hội tạo điều kiện cho bị cáo cải sửa mình, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 chiếc chìa khóa bằng kim loại màu bạc, có KT 3,2 x 1,5 cm; 01 chiếc sim điện thoại của hãng Viettel trên sim điện thoại có mã số 8984 04800 03801 15204 liên quan vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các đương sự thực hiện quyền kháng cáo theo quy định.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và các Điều 65; 91; 101 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Trần Xuân H 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Xuân H cho Ủy ban nhân dân xã Diễn H, huyện Diễn Ch, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

2. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu cho tiêu hủy: 01 chiếc chìa khóa bằng kim loại màu bạc, có KT 3,2 x 1,5 cm; 01 chiếc sim điện thoại của hãng Viettel trên sim điện thoại có mã số 8984 04800 03801 15204.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo Trần Xuân H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2024/HS-ST

Số hiệu:23/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về