Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 21/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2023, tại Nhà văn hóa xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

20/2023/TLST - HS ngày 21 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST - HS ngày 10 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy T, sinh ngày 29 tháng 4 năm 1986; sinh trú quán: Thôn M, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Duy A và bà Dương Thị L; có vợ là Nguyễn Thị H và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2020; tiền sự: Không.

Tiền án: Có 01 tiền án.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2020/HSST ngày 28/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Duy T 01 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 22/8/2021, T đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích.

- Về nhân thân:

+ Tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số: 2784/QĐ - CT ngày 29/7/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc quyết định đưa T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Ngày 29/7/2015, T đã chấp hành xong.

+ Tại Quyết định xử lý vi phạm hành chính số: 09/QĐ - TA ngày 13/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với T thời hạn 18 tháng. Ngày 29/01/2019, T đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Yên Lạc, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 13/11/2022, Nguyễn Duy T đi bộ từ nhà của mình ra đường liên xã Y, mục đích là để đi nhờ xe mô tô của người đi đường mà T không biết tên, tuổi địa chỉ đến huyện M, thành phố Hà Nội mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, T đi vào một ngõ nhỏ tìm và mua được của một người nam giới không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói nhỏ nghi ngờ là ma túy Heroine với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, T lại đi nhờ xe của một người đi đường về xã Y, huyện Y để tìm chỗ sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang đi bộ trên đường liên thôn thuộc địa phận thôn M, xã Y thì bị Tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc kiểm tra phát hiện và bắt quả tang T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật Cơ quan Công an đã thu giữ được gồm: Thu tại lòng bàn tay phải của T 01 gói nhỏ ninon bên trong bọc giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong trong phong bao ký hiệu A1. T khai, là ma túy mua về để sử dụng cho bản thân.

Tại kết luận giám định số: 3393/KLGĐ ngày 17/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định, có khối lượng bằng 0,1558g (không phảy một năm năm tám gam, không kể bao bì) là ma túy loại Heroine.

Vật chứng của vụ án bao gồm: 01 bao gói niêm phong ký hiệu A1= 0,0969g còn lại sau giám định do Cơ quan giám định hoàn trả là vật Nhà nước cấm lưu hành.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các nội dung đã nêu ở trên.

Bản cáo trạng số: 23/CT - VKSYL ngày 21/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ được. Từ đó có đủ cở sở để xác định, bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố của mình đối với bị cáo Nguyễn Duy T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Duy T từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 13/11/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Duy T không có ý kiến gì tham gia tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không có kiến nghị hay khắc phục gì.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Duy T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố mà không có lời tự bào chữa nào khác. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với các vật chứng đã thu được và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 13/11/2022, tại khu vực đường liên thôn thuộc địa phận thôn M, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc. Tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc đã kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Duy T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1558g chất ma túy theo kết luận giám định là Heroine.

Với hành vi trên của Nguyễn Duy T đã có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định:

“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm …c, Heroin ,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam …” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý; xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, gây nên sự đau khổ bất hạnh cho nhiều gia đình; ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tội phạm về ma tuý là nguy cơ dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản…ngoài ra nó còn là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh thế kỷ: HIV - AIDS.

Khi đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyễn Duy T là đối tượng bị nghiện ma túy lâu năm, lại có nhân thân xấu. Năm 2020, T đã có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, mặc dù bị cáo chưa được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn còn tiếp tục sử dụng ma túy dẫn đến tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội này, thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, khi lượng hình cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật mới có tính răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có bố đẻ là ông Nguyễn Duy A được Nhà nước tặng thưởng Huy chương cho nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc ma túy: Quá trình điều tra xác định, nguồn gốc ma túy là do T mua của một người nam giới không biết tên tuổi địa chỉ ở huyện M, thành phố Hà Nội về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đối với 02 người cho T đi nhờ xe mô tô từ nhà tới khu vực huyện M, thành phố Hà Nội và ngược lại. Quá trình điều tra, bản thân T không xác định được 02 người này là ai, ở đâu. Do đó Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ điều tra, xác minh để xử lý.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

Do bao gói niêm phong ký hiệu A1 = 0,0969g là mẫu vật được Cơ quan giám định hoàn trả lại sau khi đã giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần Tịch thu tiêu hủy.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản cho nên, bị cáo Nguyễn Duy T có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng, bản thân bị cáo là đối tượng bị nghiện ma túy lâu năm, lại không có công việc ổn định nên thu nhập bấp bênh, gia đình thuộc diện kinh tế khó khăn, điều kiện kinh tế của bị cáo không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Duy T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên./.

túy”.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Duy T 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị báo bị bắt tạm giữ tạm giam 13/11/2022.

Căn cứ khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu A1 = 0,0969g do Cơ quan giám định hoàn trả là vật Nhà nước cấm lưu hành.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Chi cục thi hành án huyện Yên Lạc và Công an huyện Yên Lạc ngày 07 tháng 3 năm 2023).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Duy T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về