Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 27/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2023 tại phòng xử án-trụ sở Tòa án nhân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 13/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2023/QĐXX-HS ngày 13 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

1.Họ và tên: Lê Hồng P, tên gọi khác; không; sinh ngày 31 tháng 5 năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 49/8 Quang T, Phường I, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở hiện tại: 125/307B Lê Văn D, Phường U, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N và bà Lê Kim T; Gia đình bị cáo có 08 chị em, bị cáo là con thứ 2.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 09/8/2019, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ra Quyết định số 297/QĐ –TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng tại cơ sở Phước Bình.

Nhân thân:

+ Ngày 07/03/1994, bị Công an quận Bình Thạnh bắt vì có hành vi trộm cắp tài sản của công dân, nhưng P phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ít nghiêm trọng, đã được ra Quyết định đình chỉ điều tra.

+ Ngày 19/11/1994, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo bản án số 330/HSST, P đã chấp hành xong hình phạt, hoàn thành đóng án phí, chấp hành xong bản án và được xóa án tích.

+ Ngày 10/7/1996, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo bản án số 299/HSST, P đã chấp hành xong hình phạt và hoàn thành việc đóng án phí, chấp hành xong bản án và được xóa án tích.

+ Ngày 07/10/1998, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo bản án số 1977/HSST, P đã chấp hành xong hình phạt, hoàn thành đóng án phí, chấp hành xong bản án và được xóa án tích.

+ Ngày 29/6/2009, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 5 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 117/HSST, P đã chấp hành xong hình phạt và hoàn thành việc đóng án phí, chấp hành xong bản án và được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 30 tháng 6 năm 2022.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2.Người bào chữa cho bị cáo: Không có 3.Người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Tài chính TNHH K Địa chỉ: 24C Phan Đăng X, Phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Đình L - Vắng mặt

Địa chỉ: 24C Phan Đăng X, Phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Hồng P bị Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/6/2022, tại trước số 151B Nguyễn Hữu Q, Phường S, quận Z, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Bình Thạnh tuần tra phát hiện đối tượng Lê Hồng P sử dụng xe Honda Airblade biển số: 59V3 – xxxxx có biểu hiện nghi vấn nên đưa về Công an Phường 22, quận Bình Thạnh để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện tại baga xe của P có 01 hộp nhựa màu đen, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. P khai nhận đây là gói ma túy đá do P mua, cất giấu để sử dụng. Công an tiến hành thu giữ, niêm phong gói ma túy và lập hồ sơ bắt người phạm tội quả tang đối với P.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của P tại nhà số 125/307B Lê Văn D, Phường U, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an phát hiện, thu giữ. Tại phòng ngủ ở gác lửng của P:

- Tại góc phòng phía trong có: 01 hộp nhựa màu hồng đựng 01 gói nlyon chứa tinh thể không màu; 01 hộp giấy in chữ “ST – XS2” đựng 01 ống nhựa hàn kín 01 đầu, cắt nhọn 01 đầu, 02 kéo kim loại, 01 thìa kim loại, 01 hộp quẹt gas, 15 gói nlyon không chứa gì; 01 bình sử dụng ma túy “đá” bằng thủy tinh.

- Tại góc phòng phía ngoài có: 01 bình sử dụng ma túy “đá” bằng nhựa có gắn nỏ thủy tinh. Tại vị trí trên tường trong có: 01 bóp da màu xanh đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, 01 cân điện tử.

Công an quận Bình Thạnh đã thu giữ tang vật, lập hồ sơ, điều tra, xử lý theo quy định.

Tai cơ quan điều tra, Lê Hồng P khai mua ma túy của các đối tượng tên thường gọi là T, B (không rõ lai lịch) để sử dụng. Tối ngày 23/6/2022 P nhờ B mua giúp 2.800.000 đồng ma túy “đá”, B đồng ý. Đến khoảng 21 giờ 00 phút ngày 29/6/2022, B đến đưa cho P 01 gói nylon chứa ma túy “đá”, P đưa cho B 2.800.000 đồng. P mang gói ma túy về nhà chia làm 02 phần, 01 phần bỏ vào gói nylon cất vào bóp da màu xanh treo trên tường, 01 phần bỏ vào trong nỏ thủy tinh một ít sử dụng, sau khi sử dụng xong trong nỏ còn sót lại một ít nên P vét lấy bỏ vào trong túi nylon cất trong hộp nhựa màu hồng để sử dụng sau. Đến ngày 30/6/2022, P lấy ra một phần ma túy cất trong bóp da mày xanh bỏ vào 01 gói nylon để vào hộp nhựa màu đen để ở baga xe môtô biển số 59V3 – xxxxx rồi đi chơi. Trên đường đi thì P bị Công an kiểm tra và thu giữ gói ma túy. Mục đích P cất giấu gói ma túy này để sử dụng cho bản thân. Các dụng cụ thu giữ P dùng để phân nhỏ ma túy ra sử dụng, P mới nhờ B mua ma túy được lần đầu, P không biết nguồn gốc ma túy B mua của ai. Trước đó P có mua ma túy của đối tượng T được 02 lần và đã sử dụng hết.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bình Thạnh đã quyết định trưng cầu giám định tinh thể không màu trong 03 gói nylon thu giữ của Lê Hồng P nêu trên. Kết luận giám định số 3830/KL-KTHS ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận toàn bộ mẫu giám định đều là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng gói 1: 0,1721g, gói 2: 2,5305g, gói 3: 10,0342g.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS BTH ngày 10 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, đã truy tố bị can Lê Hồng P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2. Tại phiên tòa, 2.1. Bị cáo Lê Hồng P khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bị cáo Lê Hồng P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm g Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hồng P từ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụn g hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy: 03 gói niêm phong số vụ 789/2022, có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, gồm: Gói 1 tinh thể không màu có khối lượng 0,1468g, Gói 2 tinh thể không màu có khối lượng 2,3269g, Gói 3 tinh thể không màu có khối lượng 9,9096g.

- 01 hộp nhựa màu đen, 01 hộp nhựa màu hồng ; 01 hộp giấy in chữ “ST – XS2” ; 01 ống nhựa hàn kín 01 đầu, cắt nhọn 01 đầu; 02 kéo kim loại, 01 thìa kim loại; 01 hộp quẹt gas; 15 gói nlyon không chứa gì; 02 bình sử dụng ma túy “đá” bằng thủy tinh; 01 bóp da màu xanh; 01 cân điện tử;

-Tịch thu 01 xe máy hiệu Honda Airblade biển số 59V3 – xxxxx, số khung RLHJF6332NZ126679, số máy SM:JF94E-0473144 do Lê Hồng P đứng tên chủ sở hữu, giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi xe trên thanh toán khoản tiền vay còn thiếu cho Công ty Tài chính TNHH K, theo hợp đồng thế chấp số 2W023852620 ngày 12/5/2022, số tiền tính đến ngày 12/11/2022 là 49.970.308 đồng. Số tiền còn lại thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Nếu phát mãi xe mà không đủ thanh toán thì bị cáo Lê Hồng P có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán cho Công ty Tài chính TNHH K, và chịu tiền lãi theo hợp đồng thế chấp đã ký.

-Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc,

-Lưu hồ sơ: 01 bản phô tô hợp đồng tín dụng mua xe máy 59V3 -xxxxx mang tên Lê Hồng P.

2.2. Người đại diện hợp pháp của Công ty Tài chính TNHH K ông Phạm Đình Long có đơn trình bày: đề nghị Tòa án giao cho Cơ quan Thi hành án phát mãi xe 01 xe máy hiệu Honda Airblade biển số 59V3 – xxxxx, số khung RLHJF6332NZ126679, số máy SM: JF94E-0473144 do Lê Hồng P đứng tên chủ sở hữu, xe máy thế chấp tại Công ty theo hợp đồng thế chấp số 2W023852620 ngày 12/5/2022, để công ty thu hồi số tiền đã cho Lê Hồng P mua xe, số tiền tính đến ngày 12/11/2023 là 49.970.308 đồng và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng thế chấp đã ký kết.

3.Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận.

4.Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, tuy tố đã thực hiện đúng về thẩ m quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tố tụng: Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa. Xét thấy, tại giai đoạn điều tra, bị hại đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc xét xử tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh:

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Lê Hồng P tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Lê Hồng P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Lê Hồng P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/6/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an quận Bình Thạnh tuần tra đến trước nhà số 151B Nguyễn Hữu Q, Phường S, quận Z phát hiện Lê Hồng P có hành vi tàng trữ 10,0342g (Một không phẩy không ba bốn hai gam) ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Đồng thời, qua khám xét nhà P tại số 125/307B Lê Văn D, Phường U, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện P tàng trữ và 2,7026g (Hai phẩy bảy không hai sáu gam) ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Tổng số lượng ma túy P cất giấu là 12,7368g (Một hai phẩy bảy ba sáu tám gam), mục đích cất giấu là để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo Lê Hồng P, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách hiệm hình sự:

[4.1] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây ảnh hưởng đến trật tự trị an, đến sức khỏe của con người, làm lây lan tệ nạn nghiệp ngập ma túy trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống các tội phạm về ma túy và các tệ nạn khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, với mức án phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, với một mức án phù hợp, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, chấp hành pháp luật, đồng thời giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4.2] Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo Lê Hồng P không có tiền án, có 01 tiền sự và nhân thân xấu, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo Lê Hồng P. Tuy nhiên, Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Hồng P đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo Lê Hồng P một phần hình phạt.

[3.3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Số ma túy đã thu giữ (12,7368g, loại Methamphetamine) là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 hộp nhựa màu đen, 01 hộp nhựa màu hồng; 01 hộp giấy in chữ “ST – XS2” ; 01 ống nhựa hàn kín 01 đầu, cắt nhọn 01 đầu; 02 kéo kim loại, 01 thìa kim loại; 01 hộp quẹt gas; 15 gói nlyon không chứa gì; 02 bình sử dụng ma túy “đá” bằng thủy tinh; 01 bóp da màu xanh; 01 cân điện tử là công cụ, phương tiện phạm tội, không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 xe máy hiệu Honda Airblade biển số 59V3 – xxxxx, số khung RLHJF6332NZ126679, số máy SM:JF94E-0473144 do Lê Hồng P đứng tên chủ sở hữu, đây là phương tiện dùng để dấu ma túy liên quan đến hành vi phạm tội. Tuy nhiên, xe máy này đang thế chấp tại Công ty Tài chính TNHH K, theo hợp đồng thế chấp số 2W023852620 ngày 12/5/2022 (trị giá xe 58.600.000 đồng, khoản vay 40.000.000 đồng, đã thanh toán trước 18.600.000 đồng, ngày thanh toán lần đầu 12/6/2022, thời hạn vay 18 tháng, đã thanh toán 01 lần ngày 12/6/2022 là 2.106.987 đồng, tiền lãi 1.384.412 đồng, tổng cộng 3.491.399 đồng), số tiền tính đến ngày 12/11/2022 là 49.970.308 đồng, trong đó số tiền nợ gốc chưa thanh toán từ 12/07/2022 đến ngày 12/11/2022 là 37.893.013 đồng, tiền lãi tính từ 12/7/2022 đến ngày 12/11/2022 là 8.040.843 đồng, bảo hiểm 4.036.452 đồng theo bảng chi tiết thanh toán), nên tịch thu giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi xe trên thanh toán khoản tiền vay còn thiếu cho Công ty Tài chính TNHH K là 49.970.308 đồng, số tiền còn lại thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Nếu phát mãi xe mà không đủ thanh toán thì bị cáo Lê Hồng P có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán cho Công ty Tài chính TNHH K và tiếp tục trả lãi theo hợp đồng thế chấp đã ký kết.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, là tài sản cá nhân của bị cáo, không dùng vào việc phạm tội, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo - Lưu hồ sơ: 01 bản phô tô hợp đồng tín dụng mua xe máy 59V3 -xxxxx mang tên Lê Hồng P.

Đối với hai đối tượng có tên là B và T bán ma túy cho P, hiện nay chưa xác định được lai lịch nên khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Yêu cầu của Công ty Tài chính TNHH K buộc bị cáo phải thanh toán số tiền 49.970.308 đồng được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 2.498.515 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Lê Hồng P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm g Khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s Khoản 1 Điều 51, của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xư phat bị cáo Lê Hồng P 07 (bảy) năm tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 6 năm 2022.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng;

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy: 03 gói niêm phong có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và cán bộ điều tra Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, gồm: Gói 1 tinh thể không màu có khối lượng 0,1468g, Gói 2 tinh thể không màu có khối lượng 2,3269g, Gói 3 tinh thể không màu có khối lượng 9,9096g. 01 hộp nhựa màu đen, 01 hộp nhựa màu hồng; 01 hộp giấy in chữ “ST – XS2” ; 01 ống nhựa hàn kín 01 đầu, cắt nhọn 01 đầu; 02 kéo kim loại, 01 thìa kim loại; 01 hộp quẹt gas; 15 gói nlyon không chứa gì; 02 bình sử dụng ma túy “đá” bằng thủy tinh; 01 bóp da màu xanh; 01 cân điện tử.

- Tịch thu 01 xe máy hiệu Honda Airblade biển số 59V3 – xxxxx, số khung RLHJF6332NZ126679, số máy SM:JF94E-0473144 do Lê Hồng P đứng tên chủ sở hữu, giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi xe trên thanh toán khoản tiền vay còn thiếu tính đến ngày 12/11/2022 là 49.970.308 đồng, (trong đó số tiền nợ gốc chưa thanh toán từ 12/07/2022 đến ngày 12/11/2022 là 37.893.013 đồng, tiền lãi tính từ 12/7/2022 đến ngày 12/11/2022 là 8.040.843 đồng, bảo hiểm 4.036.452 đồng) cho Công ty Tài chính TNHH K, số tiền còn lại (nếu có) thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Nếu phát mãi xe mà không đủ thanh toán thì bị cáo Lê Hồng P có nghĩa vụ tiếp tục thanh toán cho Công ty Tài chính TNHH K. Kể từ ngày xét xử’ bị cáo Lê Hồng P tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo hợp đồng thế chấp số 2W023852620 ngày 12/5/2022 cho đến khi thanh toán xong.

- Trả lại 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, - Lưu hồ sơ: 01 bản phô tô hợp đồng tín dụng mua xe máy 59V3 -xxxxx mang tên Lê Hồng P.

(Tình trạng vật chứng như quyết định chuyển vật chứng ngày 08 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh về chuyển vật chứng giữa Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh)

4. Về án phí sơ thâm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH/13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo Lê Hồng P phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm là 2.498.515 đồng.

5. Quyền kháng cáo Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Bị cáo Lê Hồng P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về