Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 19/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 19 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2023/TLST-HS ngày 05/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST-HS ngày 30/5/2023, đối với bị cáo:

Phm Thanh T; Giới tính: Nam; sinh năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký thường trú: Tổ Y , ấp An Bình, xã An Thới Đông, huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn Đ và bà Nguyễn Thị T; vợ con: Chưa có; Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 15/12/2022, Công an xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Nhân thân:

- Bản án số 04/2016/HSST ngày 25/01/2016, Toà án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Bản án số 13/2018/HSST ngày 17/7/2018, Toà án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/01/2023 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 01/01/2023, Phạm Thanh T gọi điện thoại vào số 0901.826.xxx của một người phụ nữ tên Trúc (không rõ nhân thân, lai lịch) đặt mua một gói ma túy với giá 1.500.000 đồng, Tú hẹn Trúc đến trưa ngày hôm sau (ngày 02/01/2023) đến lấy. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 02/01/2023, T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ, biển số 62T1 - 032.xx đến hẻm Đình thuộc xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh gặp Trúc đưa tiền và nhận hai gói ma túy đá, trong đó có một gói là Trúc bán còn một gói là Trúc đưa cho T để sử dụng thử. Sau khi nhận ma túy từ Trúc, T cất giữ vào trong túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi về nhà, khi T đến trước nhà số 526 NVT, ấp 1, xã LT, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an huyện Nhà Bè kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. T khai nhận mục đích mua, cất giữ ma túy để sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 433/KL-KTHS ngày 10/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP Hồ Chí Minh, kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định (Tinh thể không màu trong hai gói nylon được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thanh T và hình dấu Công an xã LT, huyện Nhà Bè) là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,4758g (năm phẩy bốn bảy năn tám gam), loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 26/CT-VKS-NB ngày 05/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận:

Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo cáo Phạm Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phạm Thanh T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tịch thu tiêu hủy hai gói ny lon bên trong chứa tinh thể không màu, sau giám định còn lại 5,3823g ma túy, loại Methamphetamine; Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen; Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh.

Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 02/01/2023, tại trước nhà số 526 NVT, ấp 1, xã LT, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 5,4758g, ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine để sử dụng, thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất giữ ma túy để sử dụng bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng để có ma túy sử dụng bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 5,3823g ma túy, loại Methamphetamine là vật chứng của vụ án bị cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, thu giữ của bị cáo, đây là điện thoại bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy, là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh, không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Đối với người bán ma túy cho Phạm Thanh T do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T 05 (năm) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/01/2023.

[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

[2.1] Tịch thu tiêu hủy: Tinh thể không màu có khối lượng 5,3823g được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra, ký kiệu 433/23 Nhà Bè.

[2.2] Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, Imei 1: 352182860591148; Imei 2: 352182862591146, tình trạng đã qua sử dụng.

[2.3] Trả lại cho bị cáo Phạm Thanh T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh, Imei 1: 864751068438673; Imei 2: 864751068438665, tình trạng đã qua sử dụng.

(Toàn bộ bộ vật chứng có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo phiếu nhập kho số 2023-NK031 ngày 27/4/2023).

[3] Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Thanh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về