TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THUỶ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 22 tháng 6 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 đối với:
Bị cáo Bùi Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 23/8/1992 tại huyện ĐB, tỉnh H; Nơi ĐKHKTT: Xóm Hạ, xã Đ, huyện ĐB, tỉnh H; Chỗ ở hiện nay: Xóm Mít, xã T, huyện ĐB, tỉnh H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Con ông Bùi Văn Đ - Sinh năm 1964 và bà Đinh Thị X - Sinh năm 1969. Anh chị em ruột: Có 02 chị em, bị cáo là thứ 2; Vợ: H Thị T1 – Sinh năm 1996 (Đã ly hôn); Con: có 2 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017; - Tiền sự: Không.
- Tiền án: Tại bản án số 02/2021/HSST ngày 12/01/2021 của Toà án nhân dân huyện ĐB, tỉnh H xử phạt Bùi Văn T 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/7/2021.
Bị cáo Bùi Văn T bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P.(Có mặt)
*Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T: Bà Bùi Thu H – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh P.(Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 30 phút ngày 26/01/2022 tại Khu 13 Hoàng Xá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T phối hợp cùng Công an xã Hoàng Xá bắt quả tang một nam thanh niên tự khai tên là Bùi Văn T – Sinh năm 1992, HKTT ở Xóm Hạ, xã Đ, huyện ĐB, tỉnh H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Quá trình làm việc, Th tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Công an 01 gói nhỏ được gói bằng giấy chống ẩm vỏ bao thuốc lá có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng bên trong chứa chất bột cục màu trắng. Th khai nhận là ma tuý Heroine Th cất giấu để sử dụng cho bản thân. Cơ quan Công an đã niêm phong vật chứng, thu giữ toàn bộ tang vật và yêu cầu Th về trụ sở Công an huyện để làm rõ sự việc.
Hồi 22 giờ 20 phút ngày 26/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn T ở Xóm Mít, xã T, huyện ĐB, tỉnh H. Quá trình khám xét không thu giữ gì.
Ngày 26/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định chất bột cục màu trắng gói bằng giấy chống ẩm bao thuốc lá có mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng thu giữ của Th. Tại bản kết luận giám định số 199 ngày 28/01/2022 của Phòng Kĩ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận:
- Chất bột, cục màu trắng chứa bên trong 01 gói giấy gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine, có khối lượng là: 0,33 gam. (*Heroine là chất ma tuý nằm trong Danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.”) Hoàn lại đối tượng giám định 0,145 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong, dán kín trong 01 bì giấy, bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.
Căn cứ hành vi phạm tội của Th, ngày 28/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Bùi Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra, nội dung vụ án được làm rõ như sau:
Bùi Văn T là đối tượng nghiện ma tuý, sống lang thang, lao động tự do ở khu vực thành phố H Nội. Khoảng 15 giờ ngày 26/01/2022, do có nhu cầu sử dụng ma tuý Heroine nên Th đi đến khu vực cổng bệnh viện 105 thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố H Nội tìm mua ma tuý. Khi ngồi uống nước ở quán nước ven đường thì gặp Th một người nam giới đang ngồi uống nước ở đó. Th không biết anh ta tên là gì, địa chỉ ở đâu do đây là lần đầu Th gặp và anh ta cũng không nói cho Th biết. Sau khi nói chuyện với người nam giới thì Th biết anh ta có ma tuý heroine để bán. Th hỏi người nam giới “Có ma tuý hê để bán không” (tức là Th hỏi mua ma tuý heroine) thì anh ta trả lời là “Có”. Sau đó Th bảo người nam giới “Để em cái bốn trăm” (tức là bán cho Th gói ma tuý heroine với giá 400.000đ) rồi Th đưa cho người nam giới số tiền 400.000đ. Người nam giới cầm tiền Th đưa rồi lấy trong túi quần ra 01 gói giấy nhỏ đưa cho Th. Th mở ra thì thấy bên trong thấy có chứa chất bột cục màu trắng được gói bằng giấy chống ẩm vỏ bao thuốc lá, một mặt màu trắng bạc, một mặt màu trắng. Th biết đó là ma tuý heroine nên đã cầm lấy rồi rời đi. Sau đó Th cầm gói ma tuý vừa mua được đi đến bãi đất trống gần đó (Th không biết địa chỉ cụ thể) lấy gói ma tuý heroine vừa mua được ra rồi lấy một phần nhỏ ma tuý sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể. Phần ma tuý còn lại Th gói lại như trước rồi cất vào túi áo khoác trước ngực để sau sử dụng. Sau đó Th đi một mình đến khu vực xã Hoàng Xá để tìm gặp người quen của Th. Đến 16 giờ 30 phút, khi Th đang đứng ở ven đường thuộc khu 13, xã Hoàng Xá, huyện T thì bị lực lượng Công an huyện T kiểm tra bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 19/CT-VKSTT ngày 26/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh P truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự;
Tại phiên toà Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
*Căn cứ: Điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điểm h, Khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.
*Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
*Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 26/01/2022.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Th theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 BLHS.
*Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 199/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P, bên trong có chứa 0,145 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói là mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong dán kín, bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng KTHS công an tỉnh P và các chữ ký của các thành phần liên quan tại mép dán.
* Về án phí: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.
* Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
* Người bào chữa cho bị cáo trình bày bài bào chữa: xác định Cáo trạng truy tố của VKSND huyện T và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo bởi bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống tại vùng đặc biệt khó khăn.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1. Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
2. Về nội dung vụ án:
[1] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà đều thống nhất với nhau, phù hợp với vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 26/01/2022, tại Khu 13 xã Hoàng Xá, huyện T, Bùi Văn T – Sinh năm 1992, ở Xóm Mít, xã T, huyện ĐB, tỉnh H đã có hành vi tàng trữ 0,33 gam ma tuý Heroine với mục đích để sử dụng, bị Công an huyện T kiểm tra, phát hiện và thu giữ. Khối lượng ma tuý mà Th tàng trữ đã đến mức xử lý về hình sự. Hnh vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Bùi Văn T cần xử lý nghiêm minh theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.
[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật ngăn cấm, bị xã hội lên án, xong bị cáo vẫn thực hiện. Ma túy là nguồn gốc dễ làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người, ảnh hưởng đến việc duy trì trật tự trị an trên địa bàn, gây nên sự bất bình lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xử phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS)thấy rằng:
Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, là người nghiện chất ma túy; tại Bản án số 02/HSST ngày 12/01/2021 của Toà án nhân dân huyện ĐB, tỉnh H xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 13/7/2021 do đó, bị cáo chưa được xoá án tích đối với bản án trên. Ngoài ra bị cáo Th đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, tỉnh H đã ra Quyết định khởi tố vụ án về hành vi chiếm đoạt tài sản.
Về tình tiết tăng nặng TNHS: Do bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng TNHS là “Tái phạm” theo quy định tại Điểm h, Khoản 1, Điều 52 BLHS.
Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáoTh được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ sự phân tích trên, xét thấy tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần thiết áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt. Tuy nhiên, bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế, sống tại huyện ĐB, tỉnh Hòa Bình là khu vực đặc biệt khó khăn nên HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 của Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Hội đồng xét xử xét thấy trước khi phạm tội, bị cáo lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định chỉ đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày và bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 bì niêm phong số 199/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P, bên trong có chứa 0,145 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói là mẫu vật còn lại sau giám định không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Đối với một người nam giới ở cổng bệnh viện 105 thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố H Nội là người bị cáo Th khai đã bán ma tuý cho bị cáo, Th không biết tên tuổi, địa chỉ của người nam giới này. Ngoài lời khai của Th không có chứng cứ nào khác để chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T không có căn cứ để xác minh, làm rõ người này. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ xử lý.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật;
[8] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
*Căn cứ: Điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điểm h, Khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.
*Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
*Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn T 18(mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 26/01/2022.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Th theo quy định tại Khoản 5, Điều 249 BLHS.
*Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 199/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P, bên trong có chứa 0,145 gam chất bột cục màu trắng là ma túy Heroine cùng toàn bộ bao gói là mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong dán kín, bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng KTHS công an tỉnh P và các chữ ký của các thành phần liên quan tại mép dán.
Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh P đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/5/2022.
*Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
*Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án lên TAND tỉnh để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST
Số hiệu: | 23/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về