Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 225/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 225/2021/HS-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 212/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thế V (Tên gọi khác: V); Sinh ngày 29/3/1990; tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Xuân K (đã chết) và bà Đặng Thị L; Bị cáo có vợ là Phan Thị Thanh T và có 01 con; Tiền án: 01 tiền án. Tại bản án số 285/2019/HSST ngày 29/10/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 214/2007/HSST ngày 12/9/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, đến ngày 29/11/2010 chấp hành xong;

Tại bản án số 190/2012/HSST ngày 26/6/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tại bản án số 289/2012/HSST ngày 26/9/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hai bản án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt là 03 năm 09 tháng tù, đến ngày 24/01/2016 thì chấp hành xong; Ngày 25/7/2019, bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2021 cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Duy H, sinh năm: 1992 - Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Người chứng kiến:

1. Ông Vũ Đăng B, sinh năm 1975 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Anh Đặng Đình P, sinh năm 1979 - Vắng mặt.

Địa chỉ: Đường N, tổ dân phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Thế V là đối tượng nghiện chất ma túy, loại Methamphetamine hay còn gọi là ma túy đá. Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 4/6/2021, V một mình đến khu vực nghĩa địa cuối đường P, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk gặp một nam thanh niên tên B (chưa xác định được nhân thân, lai lịch). V mua 500.000 đồng tiền ma túy đá của B, thì B đưa lại cho V 01 gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, V xác định là ma túy đá nên cất giấu trong người rồi về nhà tắm rửa. Đến khoảng 22 giờ 15 phút ngày 04/6/2021, V mang theo số ma túy trên, đi xe mô tô nhãn hiệu Suzuki biển số: 23L1-01234 đến trước khu vực nhà trên đường Đ, phường T, thành phố B thì bị Công an phường T kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, được niêm phong theo quy định. Ngoài việc thu giữ chất ma túy, còn tạm giữ của V: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0877717678; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung gắn sim số 0879941999 và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki biển số 23L1- 01234, số máy 114-M183595, số khung OU-A83595.

Tại bản kết luận giám định số 627/GĐMT-PC09 ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,8270 gam loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 250/CT-VKS ngày 19/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố Trần Thế V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thế V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Thế V mức án từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,7633 gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong phong bì số: 627/GĐMT-PC09 ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0877717678 là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung gắn sim số 0879941999. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Trần Thế V không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo V nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 23L1 - 01234 nhãn hiệu Suzuki, màu sơn: Tím, Loại xe: Hai bánh từ 50 – 175cm3, số máy 114-M183595, số khung OU- A83595. Quá trình điều tra xác định là do chị Vũ Thị Thu H, sinh năm 1990, trú tại thị trấn T, huyện Q, tỉnh Cao Bằng đứng tên trong giấy chứng nhận xe. Sau đó chị H có hợp đồng ủy quyền lại cho anh Hoàng Công T , sinh năm 1992, trú tại xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, anh T tiếp tục ủy quyền cho anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1992, trú tại thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Bắc Ninh là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô trên. Tất cả các hợp đồng ủy quyền đều được công chứng theo đúng quy định của pháp luật. Ngày 04/6/2021 anh H cho bị cáo V mượn chiếc xe mô tô trên làm phương tiện đi lại. Việc bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội thì anh H không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh H và không đề cập xử lý anh H là phù hợp.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Trần Thế V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột truy tố đối với bị cáo Trần Thế V là có cơ sở, đúng pháp luật.

Như vậy đã có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 04/6/2021 tại trước khu vực nhà trên đường Đ, phường T, thành phố B. Trần Thế V có hành vi tàng trữ trái phép 0,8270 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a,……;

b,……;

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[2] Trần Thế V là công dân có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong cuộc sống, buộc bị cáo phải biết được ma túy là chất gây nghiện do nhà nước độc quyền quản lý, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến đều bị trừng trị nghiêm minh. Song do ý thức coi thường pháp luật, bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà ăn chơi đua đòi, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,8270 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân làm lây lan, phát sinh các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật...; Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo thành con người tốt có ích cho xã hội, đồng thời ngăn ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo tại bản án số 285/2019/HSST ngày 29/10/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Nên ở lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phám” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Thế V, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[5] Đối với nguồn ma túy, V khai nhận mua của người nam thanh niên tên B không rõ nhân thân lai lịch; Do chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của đối tượng B, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,7633 gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong phong bì số: 627/GĐMT-PC09 ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0877717678 là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung gắn sim số 0879941999. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Trần Thế V không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo V, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, màu sơn: Tím, Loại xe: Hai bánh từ 50 – 175cm3, số máy 114-M183595, số khung OU-A83595, biển số 23L1 - 01234, ngày 04/6/2021 V sử dụng đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên do chị Vũ Thị Thu H đứng tên trong giấy chứng nhận xe. Ngày 01/6/2020 chị H có hợp đồng ủy quyền cho anh Hoàng Công T. Ngày 19/11/2020 anh T tiếp tục ủy quyền lại cho anh Nguyễn Duy H, là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô trên. Tất cả các hợp đồng ủy quyền đều được công chứng theo đúng quy định của pháp luật . Ngày 04/6/2021 anh H cho bị cáo V mượn chiếc xe mô tô trên làm phương tiện đi lại, sử dụng làm phương tiện phạm tội nhưng anh H không biết; Do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh H và không đề cập xử lý anh H là phù hợp.

[7] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Thế V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Thế V 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 04/6/2021).

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,7633 gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong phong bì số: 627/GĐMT-PC09 ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0877717678 là công cụ, phương tiện bị cáo V sử dụng vào việc phạm tội.

- Tuyên trả cho bị cáo Trần Thế V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung gắn sim số 0879941999, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Buôn Ma Thuột trả lại 01 chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, màu sơn: Tím, Loại xe: Hai bánh từ 50 – 175cm3, số máy 114-M183595, số khung OU-A83595, biển số 23L1 - 01234 cho anh Nguyễn Duy H là chủ sở hữu.

(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/7/2021 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột)

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Thế V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 225/2021/HS-ST

Số hiệu:225/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về