TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 222/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 299/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 278/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Hoàng B, sinh năm 1991 tại tỉnh Tây Ninh; thường trú: Ấp Ph T 1, xã Ph, huyện D M Ch, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thành S, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, sinh năm 1971; bị cáo có 01 con ruột, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự Không; Nhân thân: Ngày 13/01/2012, bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố D A), tỉnh Bình Dương xử phạt 12 tháng tù về tội “Giao cấu với trẻ em”, theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2012/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2012, đóng án phí ngày 25/6/2012; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2021; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Thành S, sinh năm 1969; thường trú: Ấp Ph T 1, xã Ph, huyện D M Ch, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
*Người tham gia tố tụng khác:
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Thanh D; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ ngày 08/6/2021, Công an phường A B phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế – ma túy Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiến hành tuần tra trên địa bàn. Khi tổ tuần tra đến ngã tư giày da Th B thuộc khu phố B Đ 2, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Nguyễn Hoàng B điều khiển xe mô tô, biển số 60B5-047.05 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên trong bên phải của B có 01 hộp đựng điện thoại di động hiệu Samsung AZOS bên trong có 01 gói nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, B khai nhận là ma túy nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng. Tại cơ quan điều tra, B khai nhận khoảng 22 giờ 07/6/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên B điều khiển xe mô tô, biển số 60B5-047.05 đến đường T L thuộc quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh gặp và mua ma túy của một người phụ nữ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 200.000 đồng để sử dụng.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nilon chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) 01 hộp đựng điện thoại di động hiệu Samsung AZOS; 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave, biển số 60B5-047.05.
Căn cứ Kết luận giám định số: 321/MT-PC09 ngày 15/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2804 gam, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận giám định số: 321/MT-PC09 ngày 15/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Hoàng B tại khu vực quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Tại cáo trạng số: 315/CT – VKS-DA ngày 05 tháng 9 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng B từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
* Về xử lý vật chứng:
- Đối với số ma túy thu giữ đã phục vụ hết cho việc giám định nên không đặt ra xem xét.
- Đối 01 (một) hộp đựng điện thoại di động hiệu Samsung AZOS, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) xe mô tô, biển số 60B5-047.05 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định được bà Võ Thị V là người đứng chủ sở hữu nhưng xe bà V có số máy, số khung khác với xe thu giữ của bị cáo B, bà V hiện còn sử dụng xe mô tô này. Xe mô tô kiểu dáng Wave, biển số 60B5-047.05 do bị cáo B sử dụng vào việc phạm tội là xe của ông Nguyễn Thành S, ông S khai nhận mua xe này của một người không rõ nhân thân, lai lịch, không làm thủ tục sang tên chủ sở hữu, ông S cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, xử lý sau.
Do bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có lời nói sau cùng, tuy nhiên trong quá trình điều tra và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của của mình như Cáo trạng đã truy tố đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với bị cáo Nguyễn Hoàng B có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo là đúng theo quy định của pháp luật.
[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 03 giờ ngày 08/6/2021 Công an phường A B phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế – ma túy Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiến hành tuần tra trên địa bàn. Khi tổ tuần tra đến ngã tư giày da Th B thuộc khu phố B Đ 2, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Nguyễn Hoàng B tàng trữ trái phép chất ma túy, có khối lượng 0,2804 gam, loại Methamphetamine.
[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo tàng trữ ma túy có khối lượng 0,2809 gam, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 315/CT-VKS ngày 05 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã từng bị xét xử về tội “Giao cấu với trẻ em”, đã được xóa án tích đồng thời bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[8] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, bị cáo có nhân thân xấu, người nghiện ma túy đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Xử lý vật chứng:
- Đối với số ma túy thu giữ đã phục vụ hết cho việc giám định nên không đặt ra xem xét.
- Xét 01 (một) hộp đựng điện thoại di động hiệu Samsung AZOS, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 60B5-047.05 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định được bà Võ Thị V là người đứng chủ sở hữu nhưng xe bà V có số máy, số khung khác với xe thu giữ của bị cáo, bà V hiện còn sử dụng xe mô tô này. Xe mô tô kiểu dáng Wave, biển số 60B5-047.05 do bị cáo B sử dụng vào việc phạm tội là xe của ông Nguyễn Thành S, ông S khai nhận mua xe này của một người không rõ nhân thân, lai lịch, không làm thủ tục sang tên chủ sở hữu, ông S cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.
[10] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Hoàng B tại khu vực quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau, là đúng theo quy định của pháp luật.
[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) hộp đựng điện thoại di động hiệu Samsung AZOS.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Nguyễn Hoàng B phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 222/2021/HS-ST
Số hiệu: | 222/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về