TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 222/2020/HS-PT NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/HSPT/TLPT-HS ngày 08/01/2020 đối với bị cáo B, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo kháng cáo:
B, sinh ngày 01 tháng 9 năm 1990, tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký HKTT: ấp 6, xã C, huyện D, tỉnh Bến Tre; Chỗ ở: BPB-12.08 chung cư Botanica Premier, số 108-112B-114 Hồng Hà, Phường E, quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình học vấn: Lớp 8/12; Con ông: G và bà H; Hoàn cảnh gia đình: không có chồng, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh ngày 23 tháng 01 năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Tạm giam từ ngày 22/5/2019 đến ngày 25/7/2019 thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt.
Những bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị: I, J, K, Lvà M.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 21/5/2019, I, J, K, Nguyễn Văn L, B, M rủ nhau đến quán Bar S5, số 05 Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để chơi. Tại đây I rủ J, K, L, B, M hùn tiền mua ma túy để sử dụng chung và tất cả đều đồng ý. I bỏ tiền ra mua của một người thanh niên tên Huy (chưa rõ lai lịch) 05 viên ma túy tổng hợp và 02 gói Ketamine, với giá 3.250.000 đồng. J và I sử dụng chung 01 viên, M và B sử dụng chung 01 viên, L và K sử dụng chung 01 viên. Riêng I, K, J và L còn sử dụng Ketamine. Khoảng 04 giờ ngày 22/5/2019 khi ra về, I cầm theo số ma túy còn lại gồm 02 viên thuốc lắc và 01 gói Ketamine cùng các dụng cụ sử dụng ma túy bỏ vào túi xách, rồi rủ cả nhóm cùng về nhà của I tại số 15B/32 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng tiếp. Tất cả đều kéo về nhà I và khi về đến nhà thì I lấy số ma túy và dụng cụ trên từ trong túi xách để ra bàn.
Đến khoảng 04 giờ 45 phút cùng ngày, nghe tiếng nhạc ồn ào Công an phường Bến Nghé, Quận A phối hợp với dân phòng phường, kiểm tra hành chính nhà số 15B/32 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé thì phát hiện I, K, M, L, J, B có biểu hiện sử dụng ma túy. Đồng thời trên bàn có số ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy mà I mang từ quán Bar về nên tổ công tác tiến hành thu giữ các vật chứng trên và bắt giữ I, K, M, L, J, B về Công an phường Bến Nghé lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Theo Kết luận giám định số 1142/KLGĐ-H ngày 28/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- 02 viên nén màu xanh bên trong 01 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,8088g (Không phẩy tám không tám tám gam), loại MDMA.
- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4968g (Không phẩy bốn chín sáu gam), loại Ketamine.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HSST, ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt B 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời giam đã tạm giam từ ngày 22/5/2019 đến ngày 25/7/2019.
- Các bị cáo I, J, K, Lvà M, mỗi bị cáo bị xử phạt 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Phạt bổ sung mỗi bị cáo 05.000.000 đồng (Năm triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 29/11/2019 bị cáo B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo khai nhận đã cùng với các bị cáo I, J, K, Lvà M thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Bản án sơ thẩm đã mô tả. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo B và đồng phạm thực hiện, đã nhận định: Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm n, s khoản 1 và tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đủ điều kiện được hưởng án treo. Song do tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này nên cần thiết phải cách ly bị cáo để giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm án của bị cáo; Mức án mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo là từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo, để bị cáo có điều kiện chăm sóc hai con và mẹ già.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét lời khai của bị cáo B tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với vật chứng thu giữ được và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 22 giờ ngày 21/5/2019 tại quán Bar S5, số 05 Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo B cùng với I, J, K, Lvà M đã có hành vi hùn tiền mua 05 viên ma túy tổng hợp loại MDMA và 02 gói chất ma túy loại Ketamine để sử dụng chung. Đến khoản 04 giờ ngày 22/5/2019 quán Bar đóng cửa, bị cáo I lấy số ma túy còn lại gồm 02 viên thuốc lắc, 01 gói Ketamine cùng các công cụ sử dụng ma túy và kêu cả nhóm về nhà trọ của I tại 15B/32 Lê Thánh Tôn, phường Bến Nghé, Quận A để tiếp tục sử dụng. Bị cáo B và cả nhóm đều về nhà của I nhưng chưa ai sử dụng số ma túy trên thì bị Công an phường Bến Nghé phát hiện, bắt giữ cùng với tang vật. Do đó Bản án sơ thẩm kết tội bị cáo cùng đồng phạm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Lúc phạm tội bị cáo có thai, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo mới phạm tội lần đầu nên cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm n, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo 2 năm tù là phù hợp. Lẽ ra phải giữ nguyên mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên để bị cáo có thời gian cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội. Song xét thấy bị cáo là người lao động nhất thời phạm tội, do người khác rủ rê, lôi kéo; bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình trực tiếp nuôi hai con dưới 02 tuổi và người mẹ không còn khả năng lao động. Do đó, chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm về lại với gia đình để chăm sóc, nuôi dưỡng con cái.
[4] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Mặc dù hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và có việc làm ổn định, song trước tình hình tội phạm liên quan đến ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cả nước ngày càng diễn biến phức tạp, gây hoang mang, lo lắng cho mọi người. Do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng trong việc giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm trên lĩnh vực này.
[5] Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Kờng vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo B, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HSST, ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh:
Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt: B 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 22/5/2019 đến ngày 25/7/2019.
Về án phí: Bị cáo B không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 222/2020/HS-PT
Số hiệu: | 222/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về