Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 25/10/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 20/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2024/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2024 đối với bị cáo:

Nông Văn D; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 29 tháng 01 năm 1999 tại xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã L, huyện H, tỉnh Cao Bằng. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nông Văn H1 (Đã chết) và con bà Trương Thị N; vợ con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 26/7/2024, tạm giam từ ngày 02/8/2024 đến nay; Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn H; sinh năm 1990

Địa chỉ: Xóm H, xã T, huyện H, tỉnh Cao Bằng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 26/7/2024, bị cáo Nông Văn D một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11F9-xxxx đi từ nhà đến Bến xe khách cũ Thành phố C mua heroine với một người đàn ông (Không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ). Bị cáo đưa cho người đàn ông số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) và người này đưa lại cho bị cáo 02 (Hai) gói nhỏ heroine được gói trong giấy bạc màu trắng. Bị cáo cất heroine vừa mua được và điều khiển xe mô tô đi tìm địa điểm để sử dụng ma tuý. Khi bị cáo đi đến đoạn đường thuộc khu vực xóm M, xã Đ, huyện H, tỉnh Cao Bằng thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma tuý Công an huyện Hòa An phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm 02 (Hai) gói ma tuý bị cáo mới mua được và 01 xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Ariblade, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 11F9-xxxx.

Ngày 26/7/2024 cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng tịnh vật chứng thu giữ có khối lượng: 0,1787 gam (Không phẩy một bẩy tám bẩy gam).

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An ra Quyết định trưng cầu giám định số 261/QĐ-ĐCSHS-KTMT đối với vật chứng của vụ án. Tại bản Kết luận giám định số 458/KL-KTHS ngày 02/8/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng, kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine (Heroin)”.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSHA ngày 01/10/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Nông Văn D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến gì. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn H trình bày xe mô tô nhãn hiệu Ariblade, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 11F9-xxxx có nguồn gốc do bản thân mua với ông Trần Văn T giá mua 15.000.000đ (Mười năm triệu đồng) từ năm 2019; anh có quan hệ quen biết với bị cáo nên cho bị cáo mượn xe để sử dụng; Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma tuý anh không biết. Nay anh có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn trả lại chiếc xe mô tô để có phương tiện đi lại hằng ngày.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định của Bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù; Về việc xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là vật chứng của vụ án; hoàn trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh H 01 (Một) xe mô tô là vật chứng của vụ án. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật và không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh H không có ý kiến gì thêm. Khi nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định:

Vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 26/7/2024, tại khu vực xóm M, xã Đ, huyện H, tỉnh Cao Bằng, bị cáo D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1787g (Không phẩy một bẩy tám bẩy gam) chất bột màu trắng; theo Kết luận giám định là ma túy, loại heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Với những căn cứ trên, Hội đồng xét xử khẳng định bị cáo Nông Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Heroine là một dạng ma túy độc dược gây nghiện Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội với mục đích phục vụ nhu cầu sử dụng của cá nhân. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo là người sử dụng ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc là phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo riêng với bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải của bản thân. Do đó, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của bị cáo nên được chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với người phạm tội danh này. Xét thấy bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho bị cáo: Bị cáo khai nhận không biết họ tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này. Đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An tiếp tục thu thập, điều tra xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ khởi tố trong vụ án khác để xử lý đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Đối với số heroine còn lại là vật chứng của vụ án; đây là loại ma túy mà Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Ariblade, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 11F9-xxxx. Kết quả xác minh cho thấy đây là tài sản của anh Trần Văn H. Việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy anh không biết nên cần hoàn trả cho chủ sở hữu là anh H là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Xử phạt bị cáo Nông Văn D 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 26/7/2024.

3. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong theo quy định, mặt trước phong bì ghi: “ Số 458/KL-KTHS. Hoàn mẫu sau giám định vụ Nông Văn D

- Tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 26/7/2024”. Mặt sau phong bì có chữ ký của những người tham gia niêm phong và 04 hình dấu tròn giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cao Bằng.

- Trả lại cho anh Trần Văn H (Sinh năm 1990; địa chỉ: Xóm H, xã T, huyện H, tỉnh Cao Bằng) 01 (Một) xe mô tô biển kiểm soát 11F9-xxxx nhãn hiệu HONDA AIRBLADE màu đỏ đen; số khung: RLHJF18087Y-607443; số máy: JF18E-5107538. Tình trạng xe: Xe không có gương chiếu hậu, yếm bên trái xe bị nứt gãy rời, yếm đằng trước xe bị rời, ốp nhựa bên trái chân giẫm bị gãy rời (Kèm 01 chìa khoá xe máy).

Xác nhận số vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa An, Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/10/2024.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nông Văn D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST

Số hiệu:22/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/10/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về