TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 02 năm 2024 tại Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2024/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2024/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1967; tại: Tỉnh N; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số x đường y, phường z, thành phố y, tỉnh N; chỗ ở hiện nay: Số x đường y, phường z, thành phố y, tỉnh N; số căn cước công dân: 035067xxxx; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ: Trần Thị Y, sinh năm 1971 (đã ly hôn); có 02 con lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 83 ngày 22/07/1985, Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản công dân” (đã được xóa án tích); bản án số 122 ngày 05/8/1988, Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (đã được xóa án tích); bản án số 35 ngày 23/02/1989, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh xử phúc thẩm 6 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản công dân” tổng hợp hình phạt với 12 tháng tù giam của bản án số 122 ngày 05/8/1988 buộc H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 18 tháng tù giam (đã được xóa án tích); bản án số 19 ngày 13/5/1992, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Hà xử 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (đã được xóa án tích); bản án số 231/HSST ngày 30/10/2002, Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xử phạt 12 tháng tù về tội “Đánh bạc” (đã được xóa án tích); bản án số 154/2007/HSPT ngày 09/02/2007, Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 18 tháng tù về tội “Đánh bạc” (đã được xóa án tích); bản án số 22/2008/HSST ngày 12/06/2008, Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh N xử phạt 24 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù với bản án số 154/2007/HSPT ngày 09/02/2007 của Tòa án nhân dân tối cao buộc H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 42 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 18/5/2010 (đã được xóa án tích); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27-10-2023, chuyển tạm giam từ ngày 03-11-2023 cho đến nay tại Trại tạm giam - Công an tỉnh N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh Hoàng Sỹ T và anh Trương Văn H (không triệu tập đến phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 26/10/2023, tổ công tác Công an phường Mỹ Xá, thành phố N, tỉnh N đang làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba đường L và đường trục chính đi vào khu dân cư thuộc thôn x đường y, phường z, thành phố y, tỉnh N phát hiện Nguyễn Mạnh H điều khiển xe máy biển kiểm soát 59N1 – 0xx có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, H thả từ tay trái xuống đất 01 túi ni lông màu trắng kích thước (2,5 x 2,5) cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng ( H khai là ma túy tổng hợp dạng “đá” mua về để sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Mạnh H. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của H 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 59N1-0xxx, nhãn hiệu ATTILA, màu sơn đỏ đen xám và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawei (đều đã cũ).
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 1594/KL-KTHS ngày 01/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 (một) túi ni lông màu trắng kích thước khoảng (2,5 x 2,5) cm, được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu: 0,293 gam (không phẩy hai trăm chín mươi ba gam).
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Mạnh H khai nhận như sau: Khoảng 23 giờ 10 phút ngày 26/10/2023, H điều khiển xe máy biển kiểm soát 59N1 – 0xxx từ nhà đến khu vực đường y, phường z, thành phố y, tỉnh N gặp một người đàn ông (không biết địa chỉ, lai lịch) mua 200.000 đồng ma túy tổng hợp dạng “đá”về sử dụng. Sau khi mua, H cầm túi ma túy trên tay trái, điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 18/CT-VKS-TPNĐ ngày 13-01-2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh H đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản cáo trạng đã nêu.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Nguyễn Mạnh H tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 27 tháng tù đến 30 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Mạnh H nói lời sau cùng: Bị cao xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh H không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Mạnh H trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27-10-2023; Biên bản thu giữ vật chứng ngày 27- 10-2023; Bản kết luận giám định số 1594/KL-KTHS ngày 01/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 26-10-2023, tại khu vực Số x đư ờ ng y, phườ ng z, thà nh phố y, tỉ nh Nam Đị nh, Nguyễn Mạnh H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,293 gam (không phẩy hai trăm chín mươi ba gam) Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Methamphetamine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,293 gam nên bị cáo Nguyễn Mạnh H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Nguyễn Mạnh H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo Nguyễn Mạnh H không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt:
Xét bị cáo Nguyễn Mạnh H là đối tượng có nhân thân xấu, bị cáo đã nhiều lần bị đưa ra xét xử về nhiều lần về nhiều tội khác nhau nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để ăn năn hối cải mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung:
Xét thấy bị cáo Nguyễn Mạnh H không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
Số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Mạnh H là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu xanh(đã cũ) thu giữ của bị cáo Nguyễn Mạnh H, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử sẽ trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[7] Về các vấn đề khác trong vụ án:
Đối với đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Mạnh H, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 59N1-0xxx thu giữ của bị cáo H hiện Cơ quan điều tra chưa xác minh được nguồn gốc nên tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau.
[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 02 năm 03 tháng tù (hai năm ba tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 27-10-2023.
2. Xử lý vật chứng:
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự;
- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 1594/GĐ-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Mạnh Hung chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu xanh (đã cũ).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19-01-2024).
3. Án phí:
- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Bị cáo Nguyễn Mạnh H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Bị cáo Nguyễn Mạnh H có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Nguyễn Mạnh H có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST
Số hiệu: | 22/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về