Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ R, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 335/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử vụ án hình sự sơ thẩm số 21/2024/QĐXXST-H S ngày 02 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Danh T, sinh ngày 20/9/1997. Nơi sinh: huyện H, tỉnh Kiên Giang.

Nơi ĐKTT và chỗ ở: Ấp V, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Khmer; giới T: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh P, sinh năm 1958 và bà Thị B, sinh năm 1971; chị, em ruột: 02 người, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 28/9/2023, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang và bị tạm giữ. Ngày 06/10/2023, bị khởi tố và bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 248 cùng ngày. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại ấp V, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang. Bị cáo có mặt tại tòa.

* Người làm chứng:

1. Trần Văn T, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 670/7A đường L, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

2. Trần Minh D, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: Lô 11-S22, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ 10 phút ngày 28/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R bắt quả tang Danh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng ngủ tầng một nhà số A2-17 đường số 13, phường A, thành phố R. Thu giữ trên bàn, gần vị trí T ngồi trong phòng một đĩa sứ màu trắng, trên đĩa có chứa chất ma túy và 01 bịch ma túy, tất cả đều là ma túy Khay (Ketamine).

Qua điều tra xác định được Danh T sử dụng ma túy Khay từ khoảng đầu tháng 9 năm 2023 nhưng không thường xuyên. Thông qua bạn bè ngoài xã hội giới thiệu, chỉ dẫn và có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào sáng ngày 28/9/2023, T đi bộ đến khu vực ngã tư đường T – L, phường A để hỏi mua ma túy. Sau đó T gặp được một người thanh niên (không rõ tên, địa chỉ) nên T đã hỏi mua 01 bịch ma túy Khay của người này với số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì T đem về phòng ngủ tầng một nhà của bạn T là Trần Minh Dương tại số A2-17 đường số 13, phường An Hòa cất giấu (T đến đây chơi, Dương đã đi ra ngoài nên không biết T đem ma túy về tàng trữ). Tại đây, Danh T lấy bịch ma túy mới mua được ra đổ một ít vào cái đĩa màu trắng, lấy tấm thẻ nhựa cà ma túy ra thành bột, rồi lấy ống hút nhựa màu trắng hít sử dụng một mình đến 09 giờ 10 phút cùng ngày thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ tang vật.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 (một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu đỏ, bên trong có chứa các hạt chất rắn màu trắng không đồng nhất; 01 (một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu đỏ, bên trong có chứa chất bột màu trắng (chất bột màu trắng để trên đĩa sứ màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Danh T). Tất cả được niêm phong trong phong bì màu trắng, có chữ ký xác nhận của người bị bắt Danh T, người chứng kiến Trần Văn T, Trần Minh D, Điều tra viên Phạm Huỳnh Thanh Long và dấu mộc tròn màu đỏ của Công an phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang;

- 01 (một) đĩa sứ màu trắng;

- 01 (một) thẻ nhựa màu trắng;

- 01 (một) ống hút màu trắng.

* Tại Bản kết luận giám định số 1001/KL-KTHS ngày 02/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận:

- Chất bột màu trắng chứa bên trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1371 gam.

- Các hạt chất rắn màu trắng không đồng nhất chứa bên trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,1437 gam.

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 40, Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

* Bản Cáo trạng số 13/CT-VKSRG ngày 26/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Danh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Danh T mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng trong vụ án là 01 (một) phong bì đã được niêm phong, có ký hiệu vụ số 1001/2023 ngày 05/10/2023 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, người chứng kiến niêm phong Phạm Huỳnh Thanh Long và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ nhựa màu trắng; 01 (một) ống hút màu trắng. Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 189 ngày 06/10/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R.

- Bị cáo Danh T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã Cáo trạng nêu trên. Bị cáo thống nhất với nội dung Kết luận giám định số 1001/KL-KTHS ngày 02/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang và đồng ý với quan điểm truy tố, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố R, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Danh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào lúc 09 giờ 10 phút ngày 28/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R bắt quả tang Danh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng ngủ tầng một nhà số A2-17 đường số 13, phường A, thành phố R. Chất ma túy qua giám định là Ketamine, tổng khối lượng 1,2808 gam. Mục đích Danh T tàng trữ chất ma túy là để sử dụng cá nhân.

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Danh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như đã viện dẫn nêu trên.

[3] Xét về T chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo ý thức được việc sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, bất kỳ ai vi phạm đều bị xử lý nghiêm. Hành vi phạm tội của bị cáo Danh T là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Bản thân bị cáo có đủ năng lực biết rất rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng như thế nào đối với sức khỏe, tinh thần của con người và cũng là tiền đề tạo ra nhiều tệ nạn xấu, đặc biệt là dễ dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến bản thân bị cáo nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung. Vì vậy Nhà nước luôn chú trọng việc đấu tranh phòng ngừa và xử lý nghiêm đối với loại tội phạm này. Do đó, cần xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng đối với tội trạng của bị cáo và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, cũng đồng thời ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Danh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn; đồng thời bị cáo cũng không đảm nhiệm chức vụ, không hành nghề cũng như không làm công việc gì nhất định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[7] Về Xử lý vật chứng. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử tịch thu tiêu hủy vật chứng trong vụ án là 01 (một) phong bì đã được niêm phong, có ký hiệu vụ số 1001/2023 ngày 05/10/2023 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, người chứng kiến niêm phong Phạm Huỳnh Thanh Long và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ nhựa màu trắng; 01 (một) ống hút màu trắng. Theo Quyết định chuyển vật chứng số 05/QĐ- VKSRG ngày 26/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[9] Về các vấn đề khác của vụ án: Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho Danh T hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Danh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Danh T mức án 01 (một) năm tù. Thời hạn tù T từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 06/10/2023.

2. Về xử lý vật chứng. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử tịch thu tiêu hủy vật chứng trong vụ án bao gồm:

+ 01 (một) phong bì đã được niêm phong, có ký hiệu vụ số 1001/2023 ngày 05/10/2023 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, người chứng kiến niêm phong Phạm Huỳnh Thanh Long và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang;

+ 01 (một) đĩa sứ màu trắng;

+ 01 (một) thẻ nhựa màu trắng;

+ 01 (một) ống hút màu trắng.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 05/QĐ-VKSRG ngày 26/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 27/02/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2024/HS-ST

Số hiệu:22/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về