TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 26 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2024/TLST- HS ngày 08 tháng 03 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2024/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 03 năm 2024, đối với bị cáo:
Đào Văn T, sinh năm 1983 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn đội 3, xã Ng, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đào Văn Ch và bà Trần Thị D; vợ: Nguyễn Thị L (đã ly hôn); con: Có 01 con sinh năm 2011; tiền án: Không.
Tiền sự: Quyết định số 07/2021/QĐ-TA ngày 06/8/2021, Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong Quyết định cai nghiện bắt buộc ngày 10/8/2023.
Nhân thân:
- Quyết định số 8103/QĐ-UBND ngày 07/12/2011, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam ra Quyết định về việc đưa đối tượng nghiện vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 24 tháng.
- Bản án số 17/2015/HSST ngày 24/4/2015, Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt Đào Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/12/2016.
- Bản án số 40/2018/HSST ngày 19/10/2018, Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt Đào Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/10/2020.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/12/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 07/01/2024 đến nay; có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác: Chị Ngô Thị Th (người làm chứng); vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 29/12/2023, Tổ công tác của Công an xã Nhân Chính, huyện Lý Nhân làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát khu vực cầu Chủ thuộc thôn 1 Hạ Vỹ, xã Nhân Chính, huyện Lý Nhân, phát hiện Đào Văn T đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn, nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, phát hiện trong túi áo khoác bên trái của Đào Văn T đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong bao thuốc có 01 gói giấy màu trắng bọc trong túi nilon, chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ, Đào Văn T khai nhận chất bột màu trắng dạng cục trong gói giấy màu trắng là ma tuý, loại heroine cất giữ để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đào Văn T, thu giữ 01 gói giấy màu trắng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01, sau đó bàn giao Đào Văn T cùng vật chứng đã thu giữ đến Cơ quan CSĐT - Công an huyện Lý Nhân để điều tra theo thẩm quyền.
Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Văn T tại thôn đội 3, xã Ng, huyện B, tỉnh H, Cơ quan điều tra không thu giữ tài liệu, đồ vật gì liên quan đến vụ án.
Tại bản kết luận giám định số 20/KL-KTHS ngày 04/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luân: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,118g (không phẩy một trăm mười tám gam), loại Heroine (Heroin)”.
Tại bản cáo trạng số 20/CT-VKSLN ngày 07/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, truy tố Đào Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Đào Văn T từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng hiện đang thu giữ và án phí vụ án.
Bị cáo Đào Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân đã truy tố; không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, khách quan.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được, kết luận giám định về ma tuý và các tài liệu, chứng cứ khác lưu trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 15 phút ngày 29/12/2023, tại khu vực cầu Chủ thuộc địa phận thôn 1 Hạ Vỹ, xã Nhân Chính, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; Đào Văn T đang cất giữ trái phép 0,118g (không phẩy một trăm mười tám gam) ma tuý, loại Heroine trong túi áo khoác bên trái đang mặc với mục đích để sử dụng, thì bị Tổ công tác của Công an xã Nhân Chính phát hiện bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của bị cáo Đào Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị toà án xét xử về tội phạm cùng loại và bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đây là tình tiết cần xem xét khi áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Đào Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt:
Về hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người ở địa phương khác đến thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn huyện Lý Nhân, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể cải tạo được bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo cũng thấy được tính nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản, không có thu nhập ổn định, mục đích phạm tội không nhằm thu lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma tuý hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu và tiêu huỷ.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện theo quy định của pháp luật.
[7] Về các vấn đề khác: Đối với nguồn gốc chất ma túy đã thu giữ, theo Đào Văn T khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 200.000 đồng, cất giữ để sử dụng. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh, xử lý đối với người đã bán ma tuý cho T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt: Bị cáo Đào Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/12/2023.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu và tiêu huỷ: 01 (Một) phong bì niêm phong có số 20/KTHS, ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01” của Phòng KTHS - Công an tỉnh Hà Nam (Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân lập ngày 08/03/2024).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc Đào Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 22/2024/HS-ST
Số hiệu: | 22/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về