Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 219/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST-HS ngày 07/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/HSST-QĐ ngày 19/01/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Lê Duy P, sinh ngày 06/8/2002. Tại: Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi ĐKHKTT: phường H, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn Bé S và bà Lê Thị Bích S1; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 06/6/2021 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người làm chứng: Đặng Anh C, Phạm Kiều O.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Phạm Kiều O đi làm công nhân và ở trọ tại khu phố 1, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Bà O có mối quan hệ họ hàng (dì ruột) với Đặng Anh C, sinh ngày 06/3/2006. Ngày 05/6/2021, sau khi đi làm về phòng trọ, bà O phát hiện bị mất trộm các tài sản gồm 01 (một) chiếc lắc đeo tay bằng vàng 18K và 02 (hai) sợi dây chuyền bằng vàng 18K, tổng trị giá khoảng 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng và nghi ngờ C là người lấy trộm nên truy hỏi thì C thừa nhận cùng bạn của C là Trần Lê Duy P lấy trộm số tài trên của bà O vào ngày 03/6/2021. Đến ngày 06/6/2021, bà O dẫn C và P đến Công an phường P, thành phố M trình báo vụ việc. Tại Công an phường P, qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của P có 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa 01 (một) túi nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng. Qua làm việc, P khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá (Mathamphetamine) nên Công an phường P tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ số vật chứng gồm: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa 01 (một) túi nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định); 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 53X6 – 68xx. Sau đó, vụ việc được chuyển ngay cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra Trần Lê Duy P khai nhận như sau: P có mối quan hệ bạn bè với Đặng Anh C và cả hai đều là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 17 giờ ngày 04/6/2021, C có nhu cầu sử dụng ma túy và mua ma túy bán lại cho người khác nên rủ P đi bán dây chuyền vàng (C nói với P lấy trộm được của dì ruột C là bà Phạm Kiều O) lấy tiền để mua ma túy đá (Methamphetamine) thì P đồng ý. Sau đó, P điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 53X6 – 68xx chở C đến Tiệm vàng trên địa bàn huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (hiện chưa xác định hiệu, địa chỉ cụ thể) để bán 01 sợi dây chuyền vàng được số tiền 4.000.000 (bốn triệu) đồng và C đưa cho P giữ số tiền này. Sau đó, P chở C đi đến khu vực quận G, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người nam thanh niên (hiện chưa xác định tên và địa chỉ cư trú) hỏi mua 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng ma túy thì người này đồng ý. P đưa cho nam thanh niên này số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng và nhận được 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa 01 (một) túi nylon hàn kín chứa ma túy đá (Methamphetamine). Sau khi mua được ma túy, P điều khiển xe chở C về phòng trọ của C ở đường D, Khu phố D1, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, do không liên lạc được người mua ma túy nên P, C để lại số ma túy trên nhằm mục đích sử dụng. Đến ngày 05/6/2021, bà O phát hiện bị mất tài sản nên truy hỏi thì C thừa nhận đã cùng P lấy trộm tài sản của bà O. Sau đó, bà O dẫn C và P đến Công an phường P trình báo vụ việc. Qua làm việc, Công an phường P phát hiện P đang cất giấu ma túy trong túi quần phía trước bên phải nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu trên.

Căn cứ Kết luận giám định số 320/MT-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong túi nylon hàn kín, được đựng trong 01 (một) túi nylon miệng kéo dính trong 01 bì thư được niêm phong có chữ ký của người bị bắt Trần Lê Duy P, cán bộ niêm phong Hồ Anh T và hình dấu đỏ của Công an phường P, thành phố M là ma túy, có khối lượng 0,4771 gam, loại Methamphetamine.

Đối với khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định là 0,3271 gam, loại Methamphetamine, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 53X6 – 68xx, qua xác minh không xác định được chủ sở hữu. Trần Lê Duy P khai mua xe mô tô trên của người bạn không rõ tên, nhân thân, lai lịch với giá 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng. Ngày 05/6/2021, P điều khiển xe mô tô trên chở C đi mua ma túy, xét thấy xe mô tô trên liên quan đến hành vi phạm tội của P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xử lý theo quy định.

Đối với đối tượng nam thanh niên bán ma túy cho Trần Lê Duy P và Đặng Anh C, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên không đề cập xem xét, xử lý. Khi xác định được, Cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra làm rõ, xử lý sau.

Đối với Đặng Anh C đã có hành vi cùng Trần Lê Duy P đi mua ma túy để bán lại cho người khác, nhưng sau đó lại tàng trữ nhằm mục đích sử dụng, nhưng chưa sử dụng thì P bị phát hiện, bắt giữ. Xét thấy, thời điểm thực hiện hành vi, C chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên không đề cập xem xét, xử lý.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản của Đặng Anh C và hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của Trần Lê Duy P, do chưa có kết luận định giá đối với các tài sản liên quan nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Cáo trạng số 221/CT-VKS-HS ngày 22/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Trần Lê Duy P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo Trần Lê Duy P mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Lê Duy P, chữ ký cán bộ niêm phong Hồ Anh T và đóng dấu tròn đỏ công an phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; đóng dấu niêm phong bằng dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; Theo kết luận giám định số 320/MT-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và Biên bản đóng gói niêm phong, giao nhận lại đối tượng giam định ngày 07/6/2021 thì bên trong có: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,3271 gam. Giao cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một 01 (một) xe mô tô biển số 53X6-685xx, kiểu dáng Dream, số khung PA11000819xx, số máy HD1P53FMH Y00938xx để tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của người làm chứng, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 04/6/2021, Trần Lê Duy P, Đặng Anh C có hành vi mua chất ma túy là Methamphetamine (có khối lượng 0,4771 gam) nhằm mục đích bán lại cho một đối tượng khác (không xác định được nhân thân, lai lịch), nhưng sau đó do không liên lạc được người mua nên P, C giữ lại nhằm mục đích sử dụng. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đối với Đặng Anh C, do tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội C trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 12 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, đối với hành vi trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hiện cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đang trưng cầu định giá để xử lý theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi Cnh là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, đối với bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Lê Duy P, chữ ký cán bộ niêm phong Hồ Anh T và đóng dấu tròn đỏ công an phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; đóng dấu niêm phong bằng dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; Theo kết luận giám định số 320/MT-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và Biên bản đóng gói niêm phong, giao nhận lại đối tượng giám định ngày 07/6/2021 thì bên trong có: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,3271 gam.

Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 53X6-68xx, kiểu dáng Dream, số khung PA11000819xx, số máy HD1P53FMH Y00938xx là phương tiện thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó cần giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một tạm giữ để điều tra, xử lý trong vụ án khác.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Lê Duy P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Lê Duy P 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/6/2021.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Lê Duy P, chữ ký cán bộ niêm phong Hồ Anh T và đóng dấu tròn đỏ công an phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; đóng dấu niêm phong bằng dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; Theo kết luận giám định số 320/MT-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và Biên bản đóng gói niêm phong, giao nhận lại đối tượng giám định ngày 07/6/2021 thì bên trong có: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,3271 gam.

- Giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương 01 (một) xe mô tô biển số 53X6-68xx, kiểu dáng Dream, số khung PA11000819xx, số máy HD1P53FMH Y00938xx.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 025.22 ngày 15/11/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

460
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về