TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 22/2022/HSST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Tiến Đ, tên gọi khác: không có; sinh ngày 19/7/1994, tại U, Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 1, khu H, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đắc Q, sinh năm 1952 và bà Đinh Thị Ph, sinh năm 1956; vợ: Vũ Thị Y, sinh năm 1995 và có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/11/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử án vắng mặt).
*Người chứng kiến:
1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1976.
Địa chỉ: Tổ 3, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
2. Ông Đoàn Văn V, sinh năm: 1970; địa chỉ: Tổ 3, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án Đ tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 13/11/2021, Nguyễn Tiến Đ nhắn tin qua ứng dụng Facebook cho một nam thanh niên tên B (Đ mới quen biết khoảng 02 tháng, không rõ lai lịch, địa chỉ) để đòi 200.000 đồng thì B nói không có tiền trả, chỉ trả bằng ma túy, loại “đá”, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đ đồng ý. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 14/11/2021 B gọi điện hẹn Đ đến ngõ sau trạm y tế phường P, thuộc tổ 3, khu B 1, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh để lấy ma túy. Khoảng 08 giờ cùng ngày, Đ điều khiển xe mô tô đến nơi thì gặp và Đ B đưa cho 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng. Kiểm tra thấy đúng là ma túy, Đ kẹp ma túy giữa lòng bàn chân phải đang đi dép rồi điều khiển xe mô tô về nhà.
Khi vừa về đến đầu ngõ thì bị Công an phường P kiểm tra, Đ nhấc chân phải lên để túi nilon rơi khỏi lòng bàn chân xuống đất nhưng bị phát hiện bắt quả tang. Công an thu giữ túi nilon chứa ma túy. Ngoài ra còn tạm giữ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu đỏ đen, BKS 14Y1-283.14 cùng giấy đăng ký xe; 01 giấy phép lái xe;
01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu xanh đen, màn hình nứt vỡ cùng sim 0901.512.591.
Tại bản kết luận giám định số 2061/KLGĐ ngày 18/11/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Tiến Đ gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,308 gam.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tiến Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Tại Cáo trạng số: 22/CT- VKSUB ngày 24/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/11/2021.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có công việc, thu nhập không ổn định, nên đề nghị HĐXX không áp dụng.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 2061/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 sim điện thoại số 0901.512.591; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Oppo, màu xanh đen, màn hình bị nứt vỡ.
Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu đỏ đen, BKS 14Y1-283.14, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là của chị Vũ Thị Y (vợ Đ) và 01 giấy phép lái xe của Đ, không liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Y, nên không đề cập xử lý.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã Đ thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra là phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường P lập hồi 08 giờ 15 phút, ngày 14/11/2021, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 00 phút, ngày 14/11/2021, tại tổ 3, khu B , phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Tiến Đ là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,308 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt:
[3.1] Hình phạt chính:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư, nên cần phải xử lý nghiêm.
* Tình tiết tăng nặng: Không có *Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo Đ hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ và sim điện thoại số 0901.512.591 bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại OPPO màu xanh đen, màn hình bị nứt vỡ bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu đỏ đen, BKS 14Y1-283.14, cùng giấy đăn ký xe của chị Vũ Thị Y; 01 giấy phép lái xe của Nguyễn Tiến Đ, không liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản trên cho chị Y, nên không đề cập xử lý.
[5] Những tình tiết khác trong vụ án: Đối với người đàn ông tên B bán ma túy cho Đ, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có căn cứ để xử lý.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố : Bị cáo Nguyễn Tiến Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Tiến Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14/11/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 2061/KLGĐ còn nguyên vẹn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 sim điện thoại số 0901.512.591; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại OPPO, màu xanh đen, màn hình bị nứt vỡ.
(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 02 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).
3. Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Tiến Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp ngân sách Nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 22/2022/HSST
Số hiệu: | 22/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về