TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 218/2024/HS-ST NGÀY 31/10/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 198/2024/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 204/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh năm 1991 tại Nghệ An. Nơi ĐKHKTT: Xóm 1, xã D, huyện D, tỉnh N; chỗ ở hiện nay: Tàu Hoàng Phương Vigor thuộc Công ty TNHH hàng hải Hoàng Phương; nghề nghiệp: Thuyền viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc L và bà Hoàng Thị C; chưa có vợ con;
Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 30/6/2024 đến ngày 05/7/2024 chuyển tạm giam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 29/6/2024, tại đường nội bộ khu công nghiệp Nam Cầu Kiền thuộc thôn 3, xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên, Công an xã Kiền Bái phát hiện Nguyễn Văn T có biểu hiện cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an đã thu tại túi quần phía trước bên phải của T 02 gói giấy chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma túy). Tại thời điểm bắt giữ T còn có ông Trần Văn Đạo là xe ôm chở T, tạm giữ của ông Đạo xe mô tô BKS 15G1-xxxx. Tổ công tác đã đưa T, ông Đạo cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Kiền Bái lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Khám xét nơi ở của T tại tàu Hoàng Phương Vigor thuộc Công ty TNHH hàng hải Hoàng Phương và kiểm tra xe mô tô BKS 15G1-xxxx không thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án.
Tại Kết luận giám định số 865/KL-KTHS ngày 01/7/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố kết luận: 02 gói giấy chứa chất bột màu trắng thu của T có khối lượng 0,36 gam, loại heroine.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai: T là thuyền viên của tàu Hoàng Phương Vigor đang neo đậu tại khu vực chân cầu Kiền, huyện Thủy Nguyên. Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 29/6/2024, T đi đò lên bến đò Lở thuộc xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên, sau đó thuê ông Trần Văn Đ (lái xe ôm) chở đến khu công nghiệp Nam Cầu Kiền thuộc xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T bảo ông Đ đứng ngoài đợi, T đi bộ vào trong đường nội bộ khu công nghiệp khoảng 200 mét mua của người thanh niên không quen biết 02 gói heroin với giá 400.000 đồng. Mua được ma túy, T cất giấu vào túi quần rồi quay lại chỗ ông Đ thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng.
Bản Cáo trạng số 218/CT-VKSTN ngày 09 tháng 10 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên. Bị cáo nhất trí với tội danh mà Kiểm sát viên truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 30/6/2024. Về hình phạt bổ sung, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì giấy, dấu niêm phong số 865MT/PC09 (trong chứa 0,26 gam heroin cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định). Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh, tình tiết định khung và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ căn cứ xác định: Ngày 29/6/2024, Nguyễn Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,36 gam heroine để sử dụng cho bản thân bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang tại khu công nghiệp Nam Cầu Kiền thuộc thôn 3, xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Như vậy, hành vi của Nguyễn Văn T đủ cơ sở cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục, răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tội phạm chung.
- Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: [4] Bị cáo T không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, T có thời gian tham gia quân ngũ nên còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng:
[7.1] Đối với 01 phong bì giấy, dấu niêm phong số 865MT/PC09 (trong chứa 0,26 gam heroin cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định) chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên quản lý, được xác định thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7.2] Đối với xe mô tô BKS 15G1-xxxx thuộc sở hữu hợp pháp của ông Trần Văn Đ, ông Đ chở T nhưng không biết, không tham gia việc T mua ma túy. Sau khi tiến hành xong các hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho ông Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Đối với ông Trần Văn Đ điều khiển xe mô tô chở T nhưng không biết, không tham gia việc T mua ma túy; đối tượng bán ma túy cho T không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý nên Hội đồng xét xử không xét.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ ngày 30 tháng 6 năm 2024.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy, dấu niêm phong số 865MT/PC09 (trong chứa 0,26 gam heroin cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định).
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và Phiếu nhập kho số NK2025/02 ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).
- Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 218/2024/HS-ST
Số hiệu: | 218/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về