Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 214/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 214/2021/HSST NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 208/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021, theo quyết định đưa ra xét xử số 207/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Lường Văn B, sinh năm 1990; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Lường Văn T; Họ tên mẹ: Lường Thị P; bị cáo có vợ là Bác Thị T1, sinh năm 1992; có 02 con- con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/8/2021, Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 -Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Bị cáo Lò Văn K, sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Nơi cú trú: Nơi cư trú: Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Lò Văn D; Họ tên mẹ: Lò Thị H; bị cáo có vợ là Lò Thị T2, sinh năm 1998; có 01 sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/8/2021, Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 -Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn B và Lò Văn K: Ông Lê Quang Đ- Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lường Văn B, Lò Văn K đều ở Xã C, huyện T, Điện Biên xuống làm thuê tại công trường xây dựng của Học viện N ở Thị trấn T, huyện G, Hà Nội. Vì B và K đều là các đối tượng sử dụng ma túy, nên khoảng 12 giờ 50 phút ngày 18/8/2021 B rủ K góp tiền đi mua ma tuý để cùng sử dụng. K đồng ý. B và K thống nhất mỗi người góp số tiền 50.000 đồng để đi mua ma túy. K mượn xe máy Honda Wave BKS 88S3-2362 của chủ cai xây dựng (không rõ nhân thân) rồi điều khiển chở B từ công trường xây dựng tại Học viện N thuộc thị trấn T đến khu vực gầm cầu P, huyện G, Hà Nội. Khi đến gần cầu P, K bảo B đứng chờ ở ven đường, còn K điều khiển xe máy đi về phía gầm cầu cách chỗ B đứng khoảng 40m, K gặp một người đàn ông ven đường không rõ nhân thân hỏi mua 100.000 đồng ma tuý, K đưa cho người đàn ông đó 100.000 đồng và nhận lại 01 gói nhỏ băng dính màu đen, bên trong có ma túy. K cầm ma tuý trong lòng bàn tay trái, sau đó điều khiển xe đón B rồi đi về. Khi K và B về đến khu vực chốt kiểm soát phòng chống dịch Covid19 tại đường 30m thị trấn T, huyện G, Hà Nội thì bị cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng gồm có:

- Thu giữ của Lò Văn K: 01 gói nhỏ băng dính màu đen bên trong gồm 02 đoạn ống hút màu vàng bịt kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng và 01 đoạn ống hút màu hồng bịt kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 xe máy Honda Wave BKS 88S3-2362; 01 điện thoại di động nhãn hiệu LEAGOO, màn hình cảm ứng, màu hồng nhạt.

- Thu giữ của Lường Văn B: 01 điện thoại di động Samsung màn hình cảm ứng, màu đen.

Tại Kết luận giám định số 6447/KLGĐ-PC09, ngày 25/8/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 ống đoạn hút màu vàng, là ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,030 gam. Chất bột màu trắng bên trong 01 ống đoạn hút màu vàng, là ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,053 gam. Chất bột màu trắng bên trong 01 ống đoạn hút màu hồng, là ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,026 gam”.

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho K: do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra Công an huyện G không có căn cứ để xử lý.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu LEAGOO, màn hình cảm ứng, màu hồng nhạt thu giữ của K và 01 điện thoại di động Samsung màn hình cảm ứng, màu đen thu giữ của B, không liên quan đến hành vi tàng trữ ma tuý.

Đối với 01 (Một) xe môtô kiểu dáng Honda wave, màu đỏ đeo BKS: 88S3 2362, số khung: 03857, số máy: 08003857, xe cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra đã xác định chị Trịnh Thị Đ1, sinh năm: 1982, trú tại K5 Xã H, huyện T, Vĩnh Phúc là người đứng tên đăng ký xe. Chị Đ1 mua mới và đăng ký năm 2007, sau đó chị đã bán cho một người không quen biết vào khoảng năm 2011. Ngày 18/08/2021, Lò Văn K mượn xe máy trên tại lán trọ công trường xây dựng Học viện N, thị trấn T, huyện G, Hà Nội sử dụng để đi mua ma túy. K khai chiếc xe trên là của chủ cai xây dựng nhưng K không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện G, Hà Nội đã phối hợp cùng Công an thị trấn T rà soát chủ chiếc xe trên tại công trường trong trường Học viện N nhưng không tìm thấy chủ xe. Ngày 12/11/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện G đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 135 tách chiếc xe máy trên để điều tra làm rõ sau.

Tại bản Cáo trạng số 211/CT-VKSGL ngày 22 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố các bị cáo Lường Văn B và Lò Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Lường Văn B và bị cáo Lò Văn K khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố tại phiên tòa hôm nay và xác nhận hoàn toàn đúng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ và hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo với nội dung Cáo trạng truy tố. Xác định là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị can Lường Văn B là người khởi xướng, bị can Lò Văn K là người thực hành tích cực.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; tuyên bố các bị cáo Lường Văn B và Lò Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt Lường Văn B từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2021. Xử phạt bị cáo Lò Văn K từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2021.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy đã thu giữ của các bị cáo.

- Trả cho bị cáo Lường Văn B 01(Một) điện thoại di động Samsung, màu đen, bên trong lắp sim số 09788301xx và bị cáo Lò Văn K 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu LEAGOO, màu hồng, bên trong lắp sim số 09049020xx.

* Người bào chữa cho bị cáo các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét căn cứ việc các bị cáo đều là dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn và được chứng nhận hộ nghèo. Đồng thời, tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trong phần Tranh luận các bị cáo không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng các bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lò Văn K và Lường Văn B không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với sơ đồ hiện trường, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 18/8/2021, tại chốt kiểm soát phòng chống dịch Covid19 đường 30m thị trấn T, huyện G, Hà Nội; Lường Văn B và Lò Văn K đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine có khối lượng là 0,109 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Do đó hành vi của các bị cáo Lường Văn B và Lò Văn K đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Các bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi đó của các bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Lường Văn B thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người khởi xướng và thực hành tích cực. Bị cáo Lò Văn K với vai trò là thực hành nên cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Lường Văn B cao hơn đối với mức hình phạt bị cáo Lò Văn K như vậy mới tương xứng với vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đồng thời, các bị cáo là dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, các bị cáo là lao động chính trong gia đình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo làm nghề tự do, thu nhập không ổn định, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số lượng ma túy đã thu giữ của các bị cáo cần cho tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (Một) điện thoại di động Samsung, màu đen, bên trong lắp sim số 09788301xx, thu giữ của bị cáo Lường Văn B và 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu LEAGOO, màu hồng, bên trong lắp sim số 09049020xx thu giữ của bị cáo Lò Văn K. Quá trình điều tra, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo Lường Văn B và Lò Văn K là đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia đình. Các bị cáo đều có đơn xin miễn giám án phí nên HĐXX xem xét miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ: Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Xử phạt bị cáo Lường Văn B 13(Mười ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2021.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn K 12(Mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01(Một) phong bì niêm phong kín, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên, cán bộ Công an TT T, của Lường Văn B và Lò Văn K.

Bên trong phong bì niêm phong là 01(Một) đoạn ống hút màu vàng được hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,025 gam(đã trừ trích mấu 0,005 gam); 01(Một) đoạn ống hút màu vàng được hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,038 gam(đã trừ trích mấu 0,015 gam); 01(Một) đoạn ống hút màu hồng được hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,023 gam(đã trừ trích mấu 0,003 gam).

- Trả cho bị cáo Lường Văn B 01 điện thoại di động Samsung, màu đen, bên trong lắp sim số 09788301xx.

- Trả cho bị cáo Lò Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu LEAGOO, màu hồng, bên trong lắp sim số 09049020xx.

(Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, thành phố Hà Nội ngày 07 tháng 12 năm 2021).

5. Về án phí: Bị cáo Lường Văn B và Lò Văn K được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 214/2021/HSST

Số hiệu:214/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về