Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 21/2024/HS-ST NGÀY 07/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2024/TLST - HS ngày 30 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2024/QĐXXST - HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Hoà S (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 19 tháng 3 năm 1991, tại tỉnh T. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Khu phố L, phường T, thị xã H, tỉnh T. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1969 (đã chết); Vợ, con: Chưa có; Anh, chị, em ruột: 01 người.

- Tiền án: 02.

+ Bản án số 98/2017/HSST ngày 18/7/2017 của Toà án nhân dân thành phố T áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt 02 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Bản án số 11/2021/HSST ngày 08/02/2021 của Toà án nhân dân thị xã Hoà Thành áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 174; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 BLHS xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Tiền sự: Không.

- Nhân thân:

+ Ngày 15/5/2019, bị Công an huyện Hoà Thành xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, đã đóng phạt xong (được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính).

+ Ngày 18/8/2020, bị Toà án nhân dân thị xã Hoà Thành áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 15 tháng. Ngày 12/10/2020, Cơ sở cai nghiện ma tuý tỉnh T ra Quyết định tạm đình chỉ thi hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Hoà Thành.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 25/11/2023, chuyển tạm giam từ ngày 01/12/2024 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hoà S nghiện ma tuý từ năm 2017. Khoảng 13 giờ ngày 25/11/2023, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên Sang đi bộ đến khu vực cổng số 06 chùa Toà Thánh thuộc phường Long Thành Bắc, thị xã Hoà Thành tìm gặp một người tên Trõng (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua 01 bịch ma tuý đá với giá 800.000 đồng, Trõng đồng ý bán và đưa cho Sang 01 bịch nylon loại bóp kẹp viền màu xanh chứa ma tuý. Sau đó, Sang cất giấu bịch ma tuý vào vỏ bao thuốc lá hiệu Jet rồi để vào túi quần phía trước bên phải đi tìm nơi vắng người sử dụng.

Khi đi đến đoạn đường Hẻm 59, đường Cách mạng tháng 8 thuộc Khu phố 2, Phường 3, thành phố T thì bị Công an kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của Nguyễn Hoà S 01 bao thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 01 bịch nylon loại bóp kẹp viền màu xanh chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma tuý. Sang khai nhận tinh thể rắn màu trắng là ma tuý Sang cất giấu để sử dụng, nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại kết luận giám định số 1843/KL - KTHS ngày 27/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng (kí hiệu M) bên trong 01 bịch nylon loại bóp kẹp gửi đến giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng 1,2015 gam.

Tại Bản cáo trạng số 15/CT-VKSTPTN ngày 29-01-2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T truy tố bị cáo Nguyễn Hoà S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T trình bày bản luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoà S tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hoà S từ 5 (năm) đến 6 (sáu) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) gói niêm phong (ma tuý còn lại sau giám định) ghi số vụ 1843 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Nguyện, trợ lý Tạ Minh Phong và dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh T (kèm theo kết luận giám định số 1843/KL – KTHS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Phòng kỹ thuật thuật hình sự Công an tỉnh T (bản sao y);

+ 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu JET.

Bị cáo không tranh luận, không trình bày lời bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi của bị cáo, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Bị cáo Nguyễn Hoà S là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo có 02 tiền án, trong đó có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, chưa được xoá án tích nhưng nhằm mục đích thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, lúc 15 giờ ngày 25/11/2023, tại hẻm 59, đường Cách Mạng Tháng Tám thuộc Khu phố 2, Phường 3, thành phố T, tỉnh T, Nguyễn Hoà Scó hành vi tàng trữ trái phép 1,2015 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt quả tang, lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo Nguyễn Hoà S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo bị truy tố, xét xử là không có oan, sai cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thực hiện phong trào thi đua Quyết thắng năm 2012 và có ông nội (cụ Nguyễn Kha Sâm) được tặng huân chương kháng chiến hạng Nhì nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[5] Xét thấy, hành vi của bị cáo Nguyễn Hoà S là nguy hiểm cho xã hội, với tính chất nghiêm trọng. Ma túy là chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, cấm sử dụng, mua bán, tàng trữ.....dưới mọi hình thức vì nghiện ma túy gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, đặc biệt là tầng lớp thiếu niên hiện nay;

nghiện ma túy là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật, giết người cướp tài sản để thỏa mãn cơn nghiện…gây mất trật tự an toàn xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Do đó, cần xét xử nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản và nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 (một) gói niêm phong (ma tuý còn lại sau giám định) ghi số vụ 1843 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Nguyện, trợ lý Tạ Minh Phong và dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh T (kèm theo kết luận giám định số 1843/KL – KTHS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Phòng kỹ thuật thuật hình sự Công an tỉnh T (bản sao y);

+ 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu JET.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31-01-2024 giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T).

[7] Đối với người tên Trõng bán ma tuý cho Sang, do không biết họ tên, địa chỉ nên không làm việc được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Nguyễn Hoà S, Công an thành phố T, tỉnh T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Hoà S chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoà S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoà S 6 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25-11-2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 (một) gói niêm phong (ma tuý còn lại sau giám định) ghi số vụ 1843 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Nguyện, trợ lý Tạ Minh Phong và dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh T (kèm theo kết luận giám định số 1843/KL – KTHS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Phòng kỹ thuật thuật hình sự Công an tỉnh T (bản sao y);

+ 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu JET.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31-01-2024 giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Hoà S chịu 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Án sơ thẩm xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST

Số hiệu:21/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về