Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 21/2024/HS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Nghiêm Thành Đ, sinh ngày 17/6/1989, tại V; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn P D, xã B D, huyện V T, tỉnh V; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:

Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nghiêm Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: 03, Ngày 10/10/2022, bị Công an xã B, huyện V ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nghiêm Thành Đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; mức xử phạt: 1.500.000đ. Đ chưa chấp hành xong; Ngày 15/11/2022, bị Công an xã B, huyện V, ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; mức xử phạt: 1.500.000đ. Đ chưa chấp hành xong; Ngày 21/12/2022, Đ bị Ủy ban nhân dân xã B, huyện V ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” trong thời gian 03 tháng. Đ chấp hành xong ngày 21/3/2023; Nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh V (có mặt).

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nghiêm Văn T, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn P D, xã B D, huyện V T, tỉnh Vĩnh phúc (vắng mặt);

Người làm chứng: Anh Lê Văn H, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn M, xã H L, huyện T D, tỉnh V (vắng mặt);

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đức K, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ dân phố B S, phường L B, thành phố V Y, tỉnh V (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12/10/2023, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh V đang làm nhiệm vụ tại khu vực khách sạn C thuộc Tổ dân phố Bảo Sơn, phường Liên Bảo, thành phố V, tỉnh V phát hiện Nghiêm Thành Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại lòng bàn tay trái của Đ 01 túi nhỏ nilon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (Đ tự khai nhận đây là túi ma túy đá của Đ vừa mua với giá 300.000đ để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy vào phong bì thư ký hiệu A1. Thu giữ trong túi quần bên phải phía trước chiếc quần Đ đang mặc 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE và tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 19L5 – xxxx đều đã cũ, đã qua sử dụng. Sau đó, Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang rồi đưa Đ cùng những người có liên quan về trụ sở làm việc.

Về nguồn gốc túi ma túy đá Methamphetamine thu giữ của Nghiêm Thành Đ, quá trình điều tra Đ khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 12/10/2023, Đ một mình điều khiển xe máy BKS: 19L5 – xxxx từ nhà của mình ở thôn P D, xã B D, Hện V T đến khu vực gần khách sạn C thuộc Tổ dân phố Bảo Sơn, phường Liên Bảo, thành phố V để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây Đ mua của một nam thanh niên khoảng 40 tuổi (Đ không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ của nam giới này) 01 túi ma túy với giá 300.000đ. Sau khi mua được ma túy, Đ cầm túi ma túy ở lòng bàn tay trái rồi một mình điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh V đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nghiêm Thành Đ ở thôn P D, xã B D, huyện V T, tỉnh V. Quá trình khám xét, Cơ quan điều tra không thu giữ được tài liệu, đồ vật gì.

Ngày 12/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh V có Quyết định trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh V giám định đối với mẫu ký hiệu A1 thu giữ của Nghiêm Thành Đ.

Tại Kết luận giám định số 2815/KL-KTHS ngày 16/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh V, kết luận:

“Tinh thể dạng đá màu trắng có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng: 0,5698g (Không phảy năm sáu chín tám gam, không kể bao bì).

Hoàn lại đối tượng giám định: Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: 0,5330 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ VỤ 2684” trên giáp lai có chữ ký của người tham gia đóng gói, niêm phong và hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh V”.

Tại Cáo trạng số 18/CT- VKSNDVY ngày 17/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Nghiêm Thành Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa, bị cáo Nghiêm Thành Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nghiêm Thành Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nghiêm Thành Đ từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/10/2023), không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm: 0,5330g mẫu của mẫu ký hiệu A1 cùng toàn bộ bao gói được niêm phong; trả lại cho Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone đã cũ, đã qua sử dụng, nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo Nghiêm Thành Đ không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nghiêm Thành Đ tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội, cùng các tang vât đa thu giư, cac tài liệu, chứng cứ được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12/10/2023, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh V đang làm nhiệm vụ tại khu vực khách sạn Crowne Plaze thuộc Tổ dân phố Bảo Sơn, phường Liên Bảo, thành phố V phát hiện bắt quả tang đối với Nghiêm Thành Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại lòng bàn tay trái của Đ 01 túi nilon bên trong chứa 0,5698g tinh thể dạng đá màu trắng, qua giám định xác định là ma túy, loại Methamphetamine. Đ khai nhận mục đích mua số ma túy trên để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hành vi nêu trên của Nghiêm Thành Đ đã phạm vào tội “Tang trư trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điêm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sưa đôi, bô sung năm 2017).

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…”;

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe của con người, làm tác hại cho chính bản thân bị cáo và gia đình cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xet tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, cac tinh tiết tăng nặng, giam nhe trach nhiêm hinh sư và nhân thân cua người phạm tội, Hôi đồng xet xư nhân thấy:

Bị cáo Đ phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 5 năm nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Bị cáo Đ là người có nhân thân xấu, bị cáo có 03 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt. Căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[4] Đối với người có liên quan trong vụ án: Đối với người nam giới bán ma túy cho Đ không biết tên tuổi, địa chỉ có đặc điểm khoảng 40 tuổi, cao khoảng 1m68, dáng người nghiện, tóc cắt ngắn. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Công an phường Liên Bảo, thành phố V nhưng chưa xác định được người nam giới này là ai. Ngoài lời khai của Đ không có chứng cứ, tài liệu nào khác để xác định chính xác người đã bán ma tuý cho Đ là ai, ở đâu. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo Đ không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,5330 của mẫu ký hiệu A1 cùng toàn bộ bao gói được niêm phong kín trong một bao gói giấy “Mẫu trả vụ 2684” là mẫu vật hoàn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPhone đã cũ, đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định Đ không sử dụng vào mục đích phạm tội, do vậy đề nghị trả lại cho Đ nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS: 19L5 – xxxx tạm giữ của Đ, Đ khai nhận đây là xe máy của anh Nghiêm Văn T (anh rể của Đ) cho Đ mượn để làm phương tiện đi lại, Đ sử dụng đi mua ma túy, anh T không biết. Quá trình điều tra, xác định chiếc xe đăng ký tên anh Đinh Văn Phú ở Khu 1, phường Gia Cẩm thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Anh Phú bán chiếc xe máy trên cho anh T với giá 9.000.000đ (Chín triệu đồng), do là bạn bè quen biết nên việc mua bán xe máy giữa anh T và anh Phú không viết giấy tờ gì. Ngày 17/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã trả lại xe máy trên cho anh T nên Tòa án không xem xét đối với chiếc xe máy trên.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nghiêm Thành Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”;

2. Về Điều luật áp dụng và hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Nghiêm Thành Đ 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 12/10/2023).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 0,5330 gam ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong bao gói “ MẪU TRẢ VỤ 2684” là mẫu vật hoàn lại sau giám định;

Trả lại bị cáo Nghiêm Thành Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPhone đã cũ, đã qua sử dụng nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án (đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/01/2024).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nghiêm Thành Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST

Số hiệu:21/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về