Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 21/2024/HS-ST NGÀY 08/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh B. Toà án nhân dân huyện G mở phiên toà xét xử công khai theo hình thức trực tuyến đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2023/TLST-HS ngày 29/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 19/2023/QĐXXST-HS ngày 25/12/2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Duy M, sinh năm 1987; Trú tại: Xóm H, xã M, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy H, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1966; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; vợ là Vũ Thị Thu H, sinh năm 1991; có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013; tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 40 ngày 22/12/2020 của Toà án nhân dân thị xã T, tỉnh B xử phạt 36 tháng tù, phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 23/01/2023.

Nhân thân: Ngày 15/03/2018 bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt tại điểm cầu xét xử thành phần – Trại tạm giam Công an tỉnh B).

Người tham gia tố tụng khác: Ông Nguyễn Chí Q – Cán bộ kỹ thuật Tòa án nhân dân huyện G. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/8/2023 tại khu vực thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh B, tổ công tác Công an xã Đ phối hợp với Công an xã Đ, huyện G bắt quả tang Nguyễn Duy M có vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái M đang mặc 01 gói nhỏ được bọc ngoài bằng giấy màu trắng, có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột màu trắng, ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của M 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 99F1-xxxxx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A21 màu đen, có ốp phía sau màu hồng, 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Duy M, 01 giấy tiếp nhận điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện mang tên Nguyễn Duy M và số tiền 500.000 đồng. Sau đó, tổ công tác tiến hành lập biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định.

Tại kết luận giám định số 1790/KL-KTHS ngày 31/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 (một) gói nhỏ được bọc ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ gửi giám định có khối lượng là 0,1275 giam; là ma tuý; loại ma tuý: Heroine.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra xác định: Do bị nghiện chất ma tuý nên khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/8/2023, M điều kiển xe mô tô BKS: 99F1-xxxxx của vợ là chị Vũ Thị Thu H, sinh năm 1991, HKTT: Xóm H, xã M, thị xã T, tỉnh B di chuyển từ nhà đi sang huyện G, tỉnh B để uống thuốc Methadone. Khi đang đi trên đường đê thuộc xã M, thị xã T thì M thấy một người đàn ông không quen biết trông giống người nghiện. M nảy sinh ý định mua ma tuý về để sử dụng nên M đi về phía người đàn ông và hỏi mua 200.000 đồng ma tuý của người đàn ông này. Người đàn ông này đồng ý cầm tiền của M và đưa lại cho M 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ. M mở ra xem thì thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, M hiểu đó là ma tuý Heroin, M gói lại gói ma tuý như cũ rồi cho vào túi quần phía trước bên trái M đang mặc rồi lái xe đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực đường mới thuộc địa phận thôn N, xã Đ, huyện G thì bị lực lượng Công an xã Đ phối hợp Công an xã Đ Bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Với nội dung như trên, Cáo trạng số: 70/CTr -VKSGB ngày 28/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố Nguyễn Duy M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo M khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai nhận tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G và thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố đúng người, đúng tội, không oan.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G thực hành quyền công tố tại phiên toà, trình bày bản luận tội, sau khi phân tích hành vi phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Duy M từ 21 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2023.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ đối với 01 phong bì thư có chứa mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Bị cáo nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không đưa ra ý kiến tranh luận.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, các kết luận giám định và các tài liệu trong hồ sơ; có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/8/2023, tại địa phận thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh B, khi Nguyễn Duy M đang có hành vi tàng trữ 0,1275 gam Heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an Đ phối hợp với Công an xã Đ, huyện G phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người đủ tuổi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nên hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đối với bị cáo Nguyễn Duy M về tội “Tàng trữ trái pháp chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì nó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm, tệ nạn khác, gây bất ổn cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đủ nhận thức, năng lực pháp luật và đang trong độ tuổi lao động nhưng bị cáo lại ham chơi và mắc nghiệm ma tuý, dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ ma tuý để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm bằng luật hình mới đảm bảo được giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà sơ thẩm bị cáo đều thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội mà mình gây ra nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Trước khi phạm tội lần này bị cáo đã từng phạm tội liên quan đến ma túy chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này của bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của người phạm tội. HĐXX thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo là người mắc nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên HĐXX không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì thư có chứa mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B là tang vật trong vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 xe mô tô BKS: 99F1-xxxxx, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A21 màu đen, có ốp phía sau màu hồng và số tiền 500.000 đồng quá trình điều tra xác định đây là tài sản của vợ M là chị Vũ Thị Thu H, chị H không biết việc M sử dụng xe để đi mua ma tuý và mang theo số tài sản trên; 01 thẻ điều trị Methadone và 01 giấy tiếp nhận điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện mang tên Nguyễn Duy M không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G đã trả lại toàn bộ số tài sản trên cho chị Vũ Thị Thu H là phù hợp.

Đối với người đàn ông bán ma tuý cho M ngày 29/8/2023 ở khu vực xã M, thị xã T, tỉnh B do M không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ ở đâu nên đến thời điểm hiện tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện G vẫn chưa xác định được, khi nào xác minh làm rõ sẽ căn cứ tính chất, hành vi vi phạm để xem xét, xử lý sau là phù hợp.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy M 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2023.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Duy M 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ đối với 01 phong bì thư có chứa mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B (Vật chứng được miêu tả theo như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 08/01/2024 giữa Công an huyện G và Chi cục Thi hành án dân sự huyện G).

3. Án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Duy M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST

Số hiệu:21/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về