Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 21/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 21/2023/HS-ST NGÀY 17/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

1. Trần Nam G, sinh năm: 1988 tại Bình Định.

Nơi cư trú: ấp 1, xã  P T, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai Nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1965 và bà Lê Thị Q, sinh năm 1966; có vợ là Phạm Thị Tường V, sinh năm 1X; con: 03 người, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền sự: Không. Tiền án:

Tại Bản án số 36/2014/HSST ngày 11/4/2014 Tòa án nhân dân huyện Định Qu xử phạt Trần Nam G 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/10/2014.

Tại Bản án số 125/2017/HSST ngày 21/12/2017, Tòa án nhân dân huyện Định Qu xử phạt Trần Nam G 01 năm 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” tổng hợp hình phạt của Bản án số 65/2017/HSST ngày 25/5/2017 Tòa án nhân dân huyện Định Qu xử phạt Trần Nam G 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc chấp hành chung cho cả 02 bản án là 03 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/02/2020.

 Tại Bản án số 07/2022/HSST ngày 19/01/2022 của Toà án nhân dân huyện Định Qu xử phạt Trần Nam G 05 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản” Nhân thân: Tại Bản án số 11/2006/HSST ngày 31/3/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Định Qu xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt ngày 14-01-2022 và đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai cho đến nay.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Hỷ Minh T, sinh năm 1995 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp 3, xã P L, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai.

- Võ Thành P, sinh năm 1990 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố Hiệp Lợi, thị trấn Định Qu, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai.

- Phan Đình P, sinh năm 1997 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp 1, xã Gia Canh, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được xác xác định như sau:

Trần Nam G và Phạm Thị Tường V là hai vợ chồng, cả hai đều nghiện ma túy và sống chung với nhau tại căn nhà số 19/B, phố 4, ấp 3, xã P L, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai.

Vào khoảng 19 giờ ngày 13/01/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên G đi từ nhà đến đoạn đường gần khu vực trại heo thuộc xã Gia Canh, huyện Định Qu gặp một người đàn ông tên D khoảng 30 tuổi (không rõ họ tên và địa chỉ) mua được 01 bịch ma túy đá có giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy G mang về nhà chia thành ba bịch nhỏ để cất giấu sử dụng dần, đồng thời lấy một phần ra để sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 14/01/2022, lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy mà G đã cất giấu.

Tại Bản kết luận số: 149/KLGĐ-PC09 ngày 21/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai xác định:

- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,5270 gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 16,5285 gam, loại: Methamphetamine.

Tổng khối lượng hai mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) là 17,0555 gam, loại Methamphetamine.

Ngoài hành vi cất giấu ma túy để sử dụng, quá trình điều tra xác định trong thời gian từ tháng 05/2021, do G là người nghiện ma túy và có quen biết với nhiều con nghiện nên G nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại để kiếm lời. Để thực hiện hành vi của mình, G đã liên hệ mua ma túy của đối tượng tên Minh Kh (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực thành phố Long Khánh 02 lần. Sau đó G chia nhỏ thành nhiều phần bán cho con nghiện với giá từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Các con nghiện mua ma túy của G có thể đến trực tiếp gặp G hoặc liên lạc qua số điện thoại 0961530X của G, ứng dụng Zalo để mua ma túy. Trong quá trình G bán ma túy, Phạm Thị Tường V biết việc G bán ma túy và đồng thuận, giúp sức G bằng cách khi G đi vắng có con nghiện cần mua ma túy thì G sẽ nói với V nhận tiền và chỉ chỗ cho V nơi cất giấu ma túy và sau khi V nhận tiền từ con nghiện thì V sẽ nói cho con nghiện biết chỗ giấu ma túy để con nghiện tự lấy. V sử dụng điện thoại Iphone X màu trắng gắn sim số 0335059X để nhắn tin trao đổi mua bán ma túy với các con nghiện và thông báo lại cho G để G lấy ma túy bán cho các con nghiện. G và V đã cùng nhau bán ma túy cho 02 con nghiện. Cụ thể như sau:

- G và V đã bán ma túy cho Võ Thành P, sinh năm 1990, trú tại Khu phố Hiệp Lợi, T.T Định Qu, Định Qu, Đồng Nai được nhiều lần mỗi lần từ khoảng 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng tại nhà của G thuộc phố 4, ấp 3, xã P L, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai, G và P đều không nhớ rõ thời gian cụ thể mỗi lần mua và bán. Khi Ph có nhu cầu mua ma túy sẽ đến nhà gặp G để mua, nếu G không có ở nhà thì Ph sẽ liên hệ với G để hỏi mua. Sau đó, G sẽ gọi điện cho V để lấy tiền của Ph qua cửa sổ trước nhà và Ph lấy ma túy tại thành cửa sổ nhà của G và V.

-G bán ma túy cho Phan Đình P, sinh năm: 1997, trú tại ấp 1, xã Gia Canh, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai được hai lần, lần thứ nhất vào ngày 13/8/2021 và lần thứ hai vào ngày 15/8/2021, G bán cho P mỗi lần 01 bịch ma túy với giá 400.000 đồng tại nhà của G. Ngoài mua ma túy từ G, khi P có nhu cầu mua ma túy sẽ đến nhà gặp G để mua, nếu G không có ở nhà thì P sẽ liên hệ với G để hỏi mua. Sau đó, G sẽ gọi điện cho V để lấy tiền của P qua cửa sổ trước nhà và P lấy ma túy tại thành cửa sổ nhà của G và V.

Ngoài ra, G còn bán ma túy cho Hỷ Minh T, sinh năm 1995, trú tại ấp 3, xã P L, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai được hai lần tại nhà của G, lần thứ nhất vào ngày 11/01/2022, G bán cho T 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng và lần thứ hai vào ngày 13/01/2022, T dùng 02 lốc nước ngọt để đổi lấy 01 bịch ma túy từ G.

G khai nhận quá trình bán ma túy cho các con nghiện G không thu lợi bất chính bằng tiền mà G chỉ thu được lợi nhuận bằng ma túy để G và vợ là Phạm Thị Tường V sử dụng Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Định Qu, Trần Nam G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân

Vật chứng thu giữ:

- 02 bịch ma túy đá được G để trong túi nylon màu đen buộc dây treo ở vách tường phòng ngủ và 01 bịch ma túy đá G để trong tủ chén bát.

- 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá.

- Số tiền 220.000.000 đồng.

- 01 xe mô tô chưa được lắp ráp hoàn chỉnh, biển số 60S4-X5.

- 01 xe mô tô chưa được lắp ráp hoàn chỉnh, biển số 59L1-X.

- 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh, số IMEI 866524040266803, gắn số SIM 0961530X và 0975810X.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng, số IMEI 359406087740854, gắn số SIM 0335059X.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vario 125 biển số 60B4-X.

- 01 tờ tiền mệnh giá 100 USD.

- 250 bịch nylon rỗng.

Tại Cáo trạng số 125/CT-VKS ngày 14 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Qu đã truy tố bị cáo Trần Nam G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b,c khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Qu tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố; sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo cụ thể như sau:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Nam G từ 07 (bảy) năm đến 07( bảy ) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Áp dụng điểm b,c khoản 2 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Nam G từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” Áp dụng Điều 55, Điều 56 Bộ luật Hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Định Qu tổng hợp bản án và tổng hợp hình phạt về các tội theo quy định.

Về xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI, màu xanh có IMEI số: 866524040266803 gắn sim số 0961530X; 0975810X.

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong sau giám định số 149/KLGĐ-PC09 ngày 21/01/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 250 bịch nylon rỗng và 01 bô dụng cụ dùng để hút ma tuý đá.

Các vấn đề khác:

- 01 xe mô tô chưa được ráp hoàn chỉnh hiệu Suzuki màu bạc gắn biển số 60S4-X5. Qua tra cứu xác định chủ sở hữu là của bà Lê Thị H, sinh năm 1959, trú tại ấp 5, xã Nam Cát Tiên, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai. Cơ quan điều tra đã ủy thác điều tra đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – huyện Tân P nhưng chưa có kết quả - 01 xe mô tô chưa được ráp hoàn chỉnh hiệu Suzuki màu đen gắn biển số 59 L1- X. Qua tra cứu xác định chủ sở hữu là bà Trần Thị Kim O, địa chỉ: 330/18/6 Âu Dương L, Phường B, Quận 8, Tp Hồ Chí Minh. Cơ quan điều tra đã ủy thác điều tra đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 8 nhưng chưa có kết quả

- Đối với các số điện thoại 0961530X, 0975810X và 0335059X được sử dụng vào mục đích trao đổi mua bán ma túy, Cơ quan điều tra đã có văn bản gửi Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội đề nghị cung cấp thông tin chủ thuê bao nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả nên tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Những tài sản tạm giữ của Phạm Thị Tường V gồm có xe mô tô gắn biển số 60B4-X; điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng, số IMEI 359406087740854, gắn SIM số 0335059X; số tiền 220.000.000 đồng và tờ tiền mệnh giá 100 USD là tài sản của V. Hiện tại, V đang bỏ trốn, chưa làm việc được.

Đối với Phạm Thị Tường V, hiện nay bị can đã bỏ trốn, chưa làm việc được. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm đình chỉ đối với bị can và Quyết định truy nã đối với Phạm Thị Tường V, khi nào bắt được sẽ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

Các đối tượng có tên thường gọi là “Minh Kh”, “D” là người đã bán ma túy cho Trần Nam G để sử dụng và bán lại cho con nghiện kiếm lời. G khai nhận không biết nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm -đối tượng nhưng chưa có kết quả nên tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ và xử lý sau.

Các đối tượng Võ Thành P, Hỷ Minh T, Phan Đình Ph và Nguyễn Bảo N đều là những đối tượng nghiện đang cư trú tại địa phương. Cơ quan điều tra đã thông báo về địa phương nơi cư trú của các đối tượng để lập hồ sơ quản lý người nghiện theo quy định.

Đối với các đối tượng đã nhắn tin trao đổi mua bán ma túy với G và V, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa có kết quả nên tách ra xử lý sau.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo thống nhất về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát vừa đề nghị áp dụng đối với bị cáo và không có ý kiến hay tranh luận gì khác.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Hỷ Minh T, anh Võ Thành Ph, anh Phan Đình P đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên toà nên không ghi nhận ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Thời gian bị tạm giam bị cáo đã nhận thấy sai trái bị cáo rất ăn năn. Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Định Qu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Qu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Về căn cứ để kết tội đối với bị cáo:

Căn cứ vào bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, thể hiện:

Vào khoảng 19 giờ ngày 13/01/2022, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên Trần Nam G đi từ nhà đến đoạn đường gần khu vực trại heo thuộc xã Gia Canh, huyện Định Qu gặp một người đàn ông tên D khoảng 30 tuổi (không rõ nhân thân lai lịch) mua 01 bịch ma tuý đá có giá trị 1.500.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý G mang về nhà chia thành ba bịch nhỏ để cất giấu sử dụng dần, đồng thời lấy một phần ra để sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 14/01/2022, lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang Trần Nam G đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ toàn bộ số ma tuý mà G cất giấu, có tổng khối lượng là 17,0555 gam ma tuý, loại: Methamphetamine.

Quá trình điều tra còn xác định Trần Nam G đã bán ma tuý cho các con nghiện nhiều lần: Bán cho Hỷ Minh T được 02 lần, lần thứ nhất vào ngày 11/01/2022, G bán cho T 01 bịch ma tuý đá với giá 200.000 đồng và lần thứ hai vào ngày 13/01/2022, T dùng 02 lốc nước ngọt để đổi lấy 01 bịch ma tuý từ G.

Bán ma tuý cho Phan Đình P 02 lần, lần thứ nhất vào ngày 13/8/2021 và lần thứ hai vào ngày 15/8/2021, mỗi lần 01 bịch ma tuý với giá 400.000 đồng, các lần mua bán ma tuý đều được thực hiện tại nhà của G tại phố 4, ấp 3, xã P L, huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai.

Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với diễn biến của vụ án, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản hiện trường và các tài liệu khác thu thập lưu trong hồ sơ vụ án.

Bản kết luận giám định số:149/KLGĐ-PC09 ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai đối với khối lượng ma tuý tàng trữ trái phép của Trần Nam G là chính xác. Cụ thể khối lượng ma tuý mà bị cáo G phải chịu trách nhiệm hình sự là 17,0555 gam ma tuý, loại: Methamphetamine.

Bên cạnh đó, lời khai nhận của bị cáo về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý đối với các đối tượng Võ Thành P, Hỷ Minh Tvà Phan Đình P phù hợp với nội dung bản Cáo trạng số 125/CT-VKSĐQ ngày 14 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Qu đã mô tả.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng số 125/CT-VKSĐQ ngày 14 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Qu truy tố bị cáo Trần Nam G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b,c khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo G là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, xâm phạm an ninh, trật tự trong xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, nhân cách con người. Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử với mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Các vấn đề khác:

- 01 xe mô tô chưa được ráp hoàn chỉnh hiệu Suzuki màu bạc gắn biển số 60S4-X5. Qua tra cứu xác định chủ sở hữu là của bà Lê Thị H, sinh năm 1959, trú tại ấp 5, xã Nam Cát Tiên, huyện Tân P, tỉnh Đồng Nai. Cơ quan điều tra đã tiến hành ủy thác điều tra đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân P nhưng chưa có kết quả nên tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả xử lý sau.

- 01 xe mô tô chưa được ráp hoàn chỉnh hiệu Suzuki màu đen gắn biển số 59 L1- X. Qua tra cứu xác định chủ sở hữu là bà Trần Thị Kim O; Địa chỉ: 330/18/6 Âu Dương L, Phường B, Quận 8, Tp Hồ Chí Minh. Cơ quan điều tra đã ủy thác điều tra đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 8 nhưng chưa có kết quả, tiếp tục giao Cơ quan điều tra Công an huyện Định Qu xác minh làm rõ khi nào có kết quả xử lý sau.

- Đối với các số điện thoại 0961530X, 0975810X và 0335059X được sử dụng vào mục đích trao đổi mua bán ma túy, Cơ quan điều tra đã có văn bản gửi Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội đề nghị cung cấp thông tin chủ thuê bao nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả, tiếp tục giao Cơ quan điều tra Công an huyện Định Qu xác minh làm rõ khi nào có kết quả xử lý sau.

Những tài sản tạm giữ của Phạm Thị Tường V gồm có xe mô tô gắn biển số 60B4-X; Điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng, số IMEI 359406087740854, gắn SIM số 0335059X; Số tiền 220.000.000 đồng và tờ tiền mệnh giá 100 USD là tài sản của V. Hiện tại, V đang bỏ trốn, chưa làm việc được.

Vì vậy giao Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra làm rõ, khi nào bắt được Phạm Thị Tường V sẽ xử lý theo quy định.

Đối với Phạm Thị Tường V, hiện nay đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm đình chỉ và Quyết định truy nã đối với Phạm Thị Tường V. Khi nào bắt được sẽ xử lý theo quy định Các đối tượng có tên thường gọi là “Minh Kh”, “D” là người đã bán ma túy cho Trần Nam G để sử dụng và bán lại cho con nghiện. G khai nhận không biết nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm đối tượng nhưng chưa có kết quả. Giao cơ quan điều tra Công an huyện Định Qu tiếp tục xác minh làm rõ khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Các đối tượng Võ Thành Ph, Hỷ Minh T, Phan Đình P và Nguyễn Bảo Ngọc đều là những đối tượng nghiện đang cư trú tại địa phương. Cơ quan điều tra đã thông báo về địa phương nơi cư trú của các đối tượng để lập hồ sơ quản lý người nghiện là đúng quy định.

Đối với các đối tượng đã nhắn tin trao đổi mua bán ma túy với G và V, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa có kết quả, giao Cơ quan điều tra Công an huyện Định Qu tiếp tục xác minh làm rõ khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì được niêm phong sau giám định số: 149/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai; 250 bịch nylon rỗng dạng gói zip; 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy đá.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu xanh có IMEI số: 866524040266803 gắn sim số 0961530X; 0975810X đã qua sử dụng.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo giá ngạch theo quy định của pháp luật.

[8] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm g, khoản 2, Điều 249; điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự.

1.Tuyên bố bị cáo Trần Nam G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Xử phạt: Bị cáo Trần Nam G 07 (bảy)năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Nam G 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Buộc bị cáo Trần Nam G phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 15 (mười lăm) năm tù Tổng hợp với hình phạt 05 (năm) năm tù tại bản án số: 07/2022/HSST ngày 19/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Định Qu, tỉnh Đồng Nai về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cả hai bản án là 20 (hai mươi) năm tù Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 14/01/2022 được trừ đi thời gian tạm giam từ ngày 07/5/2021 đến ngày 29/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46, 47 Bộ luật hình sự.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI, màu xanh, có IMEI số: 866524040266803 gắn sim số 0961530X; 0975810X.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong sau giám định số: 149/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 250 bịch nylon rỗng và 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy đá.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Qu để đảm bảo cho việc thi hành án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 02 năm 2023).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Trần Nam G phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 21/2023/HS-ST

Số hiệu:21/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về