Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 209/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 209/2022/HS-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 213/2022/TLST-HS ngày 22/7/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 292/2022/QĐXXST-HS ngày 02/8/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1986 thành phố V, tỉnh N; Nơi ĐKHKTT: xóm Y, xã H, thành phố V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trương Q và bà Nguyễn Thị H; Vợ Lê Thị Ngọc H1, sinh năm 1991; có 02 con (lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2018); Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ 3; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 28/8/2008, UBND thành phố V ra Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng, thi hành xong ngày 30/01/2011.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 10/5/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Trọng T đi đến khu vực đường T thuộc xã H, thành phố V, tỉnh N để tìm mua ma túy đá. Tại đây T gặp một thanh niên không biết rõ lai lịch địa chỉ, hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng, thì được nam thanh niên đồng ý bán ma túy. T đưa cho nam thanh niên 300.000 đồng, nam thanh niên này đưa cho T 01 gói ma túy đá. Mua được ma túy, T mang về nhà cất dấu để tìm nơi sử dụng. Đến 20 giờ 30 phút, ngày 12/5/2022, khi Nguyễn Trọng T đi bộ đến khu vực trước số nhà 35 đường T thuộc khối 10, phường B, thành phố V, tỉnh N thì bị tổ công tác công an phường B, thành phố V kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang; do hoảng sợ nên T đã lấy gói ma túy đang cầm trên tay thả xuống đất, ngay dưới chân T đang đứng; lực lượng công an phát hiện, thu giữ của T 01 gói ni lông màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; tổ công tác dẫn giải Tấn cùng tang vật về trụ sở Công an phường B, thành phố V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Quá trình điều tra, Nguyễn Trọng T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Kết luận giám định số 633/KL - PC09 ngày 15/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Trọng T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Trọng T có khối lượng 0,225 gam.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Thu giữ của Nguyễn Trọng Tấn 01 gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,255 gam. Sau khi lấy mẫu gửi đi giám định số chất ma túy còn lại là 0,125 gam. Vật chứng được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh N.

Bản cáo trạng số 231/CT-VKS-HS ngày 20/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Nguyễn Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của BLHS Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt Nguyễn Trọng T từ 15 đến 18 tháng tù; Về vật chứng: đề nghị áp dụng điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín bên trong có chứa ma túy thu giữ của Nguyễn Trọng T; về hình phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; về án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Trọng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Nguyễn Trọng T thừa nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 28/10/1986 tại khu vực trước số nhà 35 đường Nguyễn Văn T thuộc khối 10, phường B, thành phố V, tỉnh N, Nguyễn Trọng T có hành vi tàng trữ trái phép 0,225 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định hành vi mà Nguyễn Trọng T thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[2.2]. Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy, bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng nay lại phạm tội. Vì vậy cần phải xét xử nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công ăn việc làm ổn định không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Trong vụ án, đối với nam thanh niên bán ma túy cho bị cáo, theo lời khai của bị cáo do bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ nên cơ quan CSĐT Công an thành phố V không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín bên trong có chứa ma túy thu giữ của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ.

[2.5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Trọng T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín bên trong có chứa ma túy thu giữ của Nguyễn Trọng T (Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V theo Phiếu nhập kho số NK 2022/238 ngày 16/8/2022) Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc Nguyễn Trọng T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 209/2022/HS-ST

Số hiệu:209/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về