Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 208/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 208/2023/HS-ST NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 214/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 234/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Trần Thị Ngọc N, sinh ngày 03/8/1989 tại tỉnh Vĩnh Long. Nơi cư trú: Tổ A, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trần Hoàng M năm 1955 (đã chết), mẹ Trần Thị D, sinh năm 1955; bị cáo có chồng là Bùi Vũ Xuân Q, sinh năm 1993 và 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/8/2023, chuyển tạm giam từ ngày 09/8/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt tại phiên tòa).

2. Đinh Nhật T, sinh ngày 18/8/1990 tại tỉnh Cà Mau. Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Chỗ ở: Tổ A, khu phố V, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Đinh Văn T1, sinh năm 1960, mẹ Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1962; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/8/2023, chuyển tạm giam từ ngày 09/8/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã P(có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thị Ngọc N1, Đinh Nhật T là những người nghiện ma túy. Sáng ngày 03/8/2023, N2 điện thoại nhờ T mua dùm 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng) ma túy đá để về sử dụng, N sẽ trả tiền sau. T đồng ý rồi đi bộ đến khu vực Đường H thuộc phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu gặp một người đàn ông tên T2 (không rõ nhân thân, lai lịch) mua hai gói ma túy đá với giá 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng). Mua xong, T2 nhà lấy xe máy rồi đi đến nhà N tổ A, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đưa ma túy cho N. N nhận ma tuý rồi cất 01 gói ma túy lớn vào ống tay áo bên trái mà N đang mặc, gói nhỏ còn lại N3 cho T, T3 gói ma túy bỏ vào ví da rồi cất vào túi quần phía trước bên phải của T4 mặc. N nhờ T điều khiển xe mô tô BKS: 69D1-655.xx chở N đi công việc. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi N và T5 đến khu vực thuộc tổ G, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì bị công an bắt quả tang N và T6 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh, không màu-trong suốt trong ống tay áo bên trái N đang mặc; 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh, không màu-trong suốt trong ví da để ở túi quần phía trước bên phải T đang mặc; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo và 01 (một) xe mô tô BKS: 69D1-655.xx.

Tại Kết luận giám định số 366/KL-KTHS-MT ngày 11/8/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận: Một phong bì màu trắng (số thứ tự 01), có hình dấu của Công an phường P - Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Trịnh Minh C, Trung tá Nguyễn Quốc T7 Nhật T Nguyễn Minh T Thị Ngọc N Trấn T D1 bên trong có 01 (một) nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu-trong suốt (ký hiệu mẫu A1) có khối lượng 0,3556 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Một phong bì màu trắng (số thứ tự 02), có hình dấu của Công an phường P - Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Trịnh Minh C1 tá Nguyễn Quốc T3 Võ T8 K Đinh Nhật T Nguyễn M T4 Trần Thị Ngọc N4 trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu-trong suốt (ký hiệu mẫu A2) có khối lượng 0,1399 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Việc xử lý vật chứng: Đối với 02 phong bì niêm phong chất ma túy đề số 366/1, 366/2 ngày 11/8/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh B đã sử dụng hết trong quá trình giám định; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo; 01 (một) xe máy BKS: 69D1-655.xx hiện đã được chuyển sang kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ bảo quản, chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 210/CT-VKS-PM ngày 31 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã truy tố các bị cáo Trần Thị Ngọc N1 Đinh Nhật T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trần Thị Ngọc N1 Đinh Nhật T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị:

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc N từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đinh Nhật T từ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo. Đối với 01 (một) xe máy BKS: 69D1-655.xx: là tài sản hợp pháp của bị cáo T9 liên quan đến hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Lời khai tại phiên toà: Các bị cáo khai nhận khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Các bị cáo không bào chữa. Các bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tội danh và khung hình phạt:

[2.1] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03 tháng 8 năm 2023, tại khu vực tổ G, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Trần Thị Ngọc N và Đinh Nhật T10 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Do đó, hành vi của các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2.2] Về khung hình phạt: Khối lượng chất ma túy mà các bị cáo Trần Thị Ngọc N1 Đinh Nhật T tàng trữ lần lượt là 0,3556 gam và 0,1399 gam (đều dưới 05 gam), thuộc loại Methamphetamine nên hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bản cáo trạng số 210/CT-VKS-PM ngày 31 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã truy tố các bị cáo Trần Thị Ngọc N và Đinh Nhật T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

[3.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[3.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo N5 hai con nhỏ nên áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho mỗi bị cáo.

[3.3] Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về mức hình phạt: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; xâm phạm trật tự an toàn xã hội và gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhân dân. Bị cáo N6 bị cáo T11 ma tuý để sử dụng. Bị cáo T tiếp nhận ý chí từ bị cáo NN đã cho lại T 01 gói ma tuý để trả công. Mỗi bị cáo phải tự chịu trách nhiệm về hành vi mà mình thực hiện. Do vậy, cần áp dụng hình phạt đủ nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của mỗi bị cáo, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Hình phạt của bị cáo N7 cao hơn hình phạt của bị cáo T12 phù hợp và đủ sức răn đe.

[5] Hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo NT là đều người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Đối với số ma tuý còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo do các bị cáo đã sử dụng làm phương tiện liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội; 01 (một) xe máy BKS: 69D1-655.xx qua kết quả xác minh là tài sản hợp pháp của bị cáo T9 liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[8] Đối với đàn ông tên T2 đã bán ma tuý cho bị cáo T Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P tiếp tục xác minh, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Thị Ngọc N1 Đinh Nhật T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc N8 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 03/8/2023).

2. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Đinh Nhật T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 03/8/2023).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định được đựng trong hai phong bì vụ số 366/1 và 366/2 ngày 11/8/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh B niêm phong và đóng dấu;

Tịch thu sung quỹ nhà nước một điện thoại di động hiệu Iphone, màu hồng, không tìm thấy số I đã cũ và không hoạt động và một điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng, không tìm thấy số I đã cũ và không hoạt động;

Trả lại cho bị cáo Đinh Nhật T13 xe mô tô hai bánh hiệu Honda, số loại Vario 125, màu đỏ đen, BKS: 69D1-655.xx, số máy JMC1E11305xx, số khung MH1JMC114PK1306xx, xe đã cũ và không hoạt động.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án thị xã Phú Mỹ đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản s 25/BB-CCTHADS ngày 09 tháng 11 năm 2023 giữa Viện kim sát nhân dân thị xã Phú Mỹ và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 12/12/2023) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 208/2023/HS-ST

Số hiệu:208/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về