Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 204/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 204/2024/HS-ST NGÀY 22/09/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 208/2024/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2024/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:

Hà Văn P, sinh năm 1992 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Cang, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Hà Văn Lục và bà Lò Thị Tâm; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không;

Về nhân thân:

Ngày 29/11/2010 Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 06 năm tù về tội Giết người, theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự và 01 năm tù về tội Cướp tài sản, theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt của 02 tội là 07 năm tù; chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2016 (Đã được xoá án tích).

Ngày 29/6/2018 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/8/2020, chấp hành xong án phí ngày 10/8/2018 (Đã được xoá án tích).

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2024 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn P: Ông Điêu Chính T - thực hiện trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ, ngày 08/6/2024, tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập làm nhiệm vụ tại bản Phách, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tiến hành kiểm tra đối với Hà Văn P đang đi bộ trên đường dân sinh. Qua kiểm tra phát hiện Hà Văn P đang cất giấu trong người 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa 22 viên nén màu hồng trên bề mặt có ký hiệu WY nghi là ma túy, loại Methamphetamine, tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng để điều tra, làm rõ.

Ngày 08/6/2024, Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập đã tiến hành xác định khối lượng các viên nén màu hồng thu giữ của Hà Văn P được 2,23 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,51 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu P2.

Tại Kết luận giám định số 1243 ngày 10/6/2024 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu P2 là ma túy, loại Methamphetamine; Khối lượng gửi mẫu giám định là 0,51 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,23 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Hà Văn P khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy, ngày 08/6/2024, P đi bộ từ nhà đến khu vực biên giới thuộc bản Trọng, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, mục đích tìm mua ma túy mang về để sử dụng. Khi đến nơi P gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết hỏi và mua được 22 viên hồng phiến với giá 200.000 đồng, có được ma tuý P cất giấu vào trong người rồi đi về, trên đường đi về thì gặp tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 153/CT-VKS ngày 29/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố Hà Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn P từ 03 năm đến 04 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mảnh nilon màu hồng, phong bì niêm phong ban đầu, mẫu P1 17 viên có khối lượng 1,72 gam Methamphetamine; 01 phong bì đựng Test thử ma của với Hà Văn P.

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn P có ý kiến: Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai và đưa ra các căn cứ giảm nhẹ như: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, cư trú ở cùng kinh tế đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hà Văn P 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo và miễn án phí cho bị cáo, theo điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.

Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Hà Văn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra. Số ma túy bị thu giữ có nguồn gốc do bị cáo mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết với giá 200.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Lóng Sập vào hồi 10 giờ 00 Pt, ngày 08/6/2024; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản Kết luận giám định số 1243 ngày 10/6/2024 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy, loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.

[3] Về khung hình phạt áp dụng: Bị cáo tàng trữ 2,23 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng, do đó đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm chế độ, chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Do vậy, cần quyết định hình phạt nghiêm khắc và phù hợp nhằm răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ do bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế, cư trú ở vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn, theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy, bị cáo có trình độ học vấn, quá trình sinh sống tại địa phương được tuyên truyền về pháp luật, mặt khác bị cáo đã nhiều lần bị xét xử về các loại tội phạm, nhận thức được tác hại của ma tuý nhưng cố tình vi phạm, do đó không có căn cứ để xem xét áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma tuý và 02 lần bị xét xử về các tội Giết người, Cướp tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma tuý (Đã được xoá án tích).

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mảnh nilon màu hồng, phong bì niêm phong ban đầu, 1,72 gam Methamphetamine; 01 phong bì đựng Test thử ma của với Hà Văn P. Xét đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma tuý bị thu giữ: Hà Văn P khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết ở khu vực biên giới thuộc bản Trọng, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu vào ngày 08/6/2024, P không biết họ tên, địa chỉ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ mở rộng điều tra.

[7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có kinh tế đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

[8] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam đối với bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Hà Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Hà Văn P 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2024.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mảnh nilon màu hồng, phong bì niêm phong ban đầu, mẫu P1 17 viên có khối lượng 1,72 gam Methamphetamine; 01 phong bì đựng Test thử ma của với Hà Văn P.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Hà Văn P.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 204/2024/HS-ST

Số hiệu:204/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về