Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 202/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 202/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 185/2021/TLST- HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 199/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Khánh D, sinh năm 1992; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Ng, xã T, huyện V, tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Số nhà , tổ dân cư số 3, P, thị trấn N, huyện V, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Nguyễn Xuân C, sinh năm 1964; họ tên mẹ: Nguyễn Thị O, sinh năm 1971; gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất; họ và tên vợ: Phạm Thị Viên, sinh năm 1992; bị cáo có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: 01 tiền sự, Theo quyết định số 07/2018/QĐST-BPXLHC ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên, Nguyễn Khánh D bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 24 tháng, ngày 02/03/2021 chấp hành xong quyết định này, chưa được xóa; nhân thân: Bản án số 78/2016/HSST ngày 12/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên, xử phạt Nguyễn Khánh D 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 30/03/2017 chấp hành xong hình phạt tù, đã xoá án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 03/06/2021 đến ngày 13/06/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh X Quốc V, sinh năm 1997; nơi cư trú: Thôn V, xã C, huyện V, tỉnh Hưng Yên, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 03/6/2021, Tổ tuần tra Cảnh sát cơ động Đại đội 3, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Cảnh sát cơ động - Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ trên tuyến đường T thuộc địa phận xã T, K, Hà Nội. Khi đến trước cổng khu đô thị V, Tổ công tác kiểm tra ô tô BKS: 89A-115.97 do anh Lộc Văn X, sinh năm 1982; trú tại: Thôn Thượng, Cửu Cao, Văn Giang, Hưng Yên điều khiển, trên xe có X Quốc Việt, sinh năm 1997; trú tại: Thôn Vàng, Cửu Cao, Văn Giang, Hưng Yên ngồi ghế phụ phía trước xe; Nguyễn Khánh D, sinh năm 1992; trú tại: Ngọc Đà, Tân Quang, V, Hưng Yên ngồi ở ghế phụ phía sau bên phải của xe và Sái Văn Y, sinh năm 1988; trú tại: Đội 5, Q, D, V, Hưng Yên ngồi ghế phụ phía sau bên trái của xe taxi. Quá trình kiểm tra phát hiện trong hộp để nước tại cánh cửa phía sau bên phải của xe taxi có 01 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng 03x03cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, D khai nhận là ma túy đá D mua về để sử dụng. Tổ công tác đã bàn giao đối tượng D cùng toàn bộ vật chứng cho Công an xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Khánh D gồm:

- 01 túi ni lông màu trắng kích thước (03x03)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 điện thoại Iphone 6 mặt lưng màu vàng, mặt trước là màn hình cảm ứng màu trắng đã cũ, đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0975742302;

- Số tiền 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn) đồng, trong đó có 08 tờ tiền mệnh giá 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng và 05 tờ tiền mệnh giá 100.000 (Một trăm nghìn) đồng.

Thu giữ của Lộc Văn X:

- 01 căn cước công dân mang tên Lộc Văn X;

- 01 Giấy phép lái xe hạng C mang tên Lộc Văn X;

- 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự xe ô tô BKS 89A-11597;

- 01 Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS 89A-11597;

- 01 Giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS 89A-11597;

- 01 xe ô tô BKS 89A-11597 nhãn hiệu Hyundai, màu bạc, số máy G4LAHM559279, số khung: RLUG6SIDAHN005201;

- 01 giấy ủy quyền của Công ty cổ phần X Mạnh ngày 05/6/2021;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có mã số doanh nghiệp là 0900515121 của Công ty cổ phần X Mạnh (Bản photocopy có dấu đỏ);

- 01 giấy phép kinh doanh vận tải số 589/GP-SGTVT của của Công ty cổ phần X Mạnh (Bản photocopy dấu đỏ).

Thu giữ của của X Quốc Việt: 01 điện thoại Samsung A20 màu đen, màn hình cảm ứng bị nứt đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0334517997 và 0838832836.

Thu giữ của của Sái Văn Y: 01 điện thoại Realme C2 nắp lưng màu xanh, màn hình cảm ứng màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0971548138.

Tại bản Kết luận giám định số 4555/KLGĐ-PC09 ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành Phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,533 gam.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, X Quốc Việt, Lộc Văn X, Sái Văn Y và bị can Nguyễn Khánh D khai: Khoảng 21 giờ ngày 03/6/2021, khi D đang ở nhà tại số 6, tổ 3, D, D, V, Hưng Yên thì X Quốc Việt gọi điện thoại rủ D đến khu đô thị V để gặp Sỹ (vì trước đó Sỹ có vay tiền của D) thì D đồng ý. Việt thuê xe taxi nhãn hiệu Hyundai, màu bạc, BKS 89A-11597 do anh Lộc Văn X điều khiển đến đón D. Khi đi đến K K, Hà Nội, Việt dừng xe để rút tiền trả tiền xe sau đó Việt bảo anh X điều khiển xe đến đón D tại khu vực đường tàu ở D, V, Hưng Yên. D lên xe taxi và ngồi ở vị trí ghế phụ phía sau bên phải xe. Trên đường đi, D nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên sử dụng số điện thoại 0975742302 gọi đến số điện thoại 0986143980 của đối tượng tên Long để hỏi mua 800.000 đồng ma túy đá và hẹn đến cửa quán tẩm quất X Long tại đường Quốc lộ 5, K, Hà Nội để lấy ma túy. Khi xe taxi đến trước cửa quán tẩm quất X Long tại đường Quốc lộ 5, K, Hà Nội, D bảo anh X dừng xe rồi D mua của Long qua cửa kính xe taxi 01 túi ni lông ma túy đá với giá 800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D cất giấu vào trong hộp đựng nước ở cánh cửa bên phải cạnh ghế phụ xe ô tô chỗ D ngồi. Sau đó, D gọi điện rủ anh Sái Văn Y đi cùng đến gặp Sỹ.

Y đồng ý nên D bảo anh X lái xe taxi quay lại D, V, Hưng Yên đón Y. Y lên xe taxi ngồi vị trí ghế phụ phía sau bên trái của xe taxi. Khi anh X điều khiển xe taxi chở D, Việt, Y đến trước cổng khu đô thị V thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng vật chứng như đã nêu trên.

Đối với Sái Văn Y và Lộc Văn X đi cùng xe với Nguyễn Khánh D nhưng Y và X không biết D cất giữ ma túy trên xe. Qua xét nghiệm phát hiện Y và X âm tính với ma túy nên Công an huyện K không có căn cứ xử lý.

Đối với X Quốc Việt không biết Nguyễn Khánh D cất giữ ma túy trên xe. Qua xét nghiệm, X Quốc Việt dương tính với ma túy. Do đó, Công an huyện K đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với X Quốc Việt.

Đối với đối tượng Long theo bị cáo D khai sử dụng số điện thoại 0986143980 liên lạc và bán ma túy cho D, nhưng đến nay chưa có kết quả cung cấp dữ liệu điện tử đối với số điện thoại trên. Ngoài lời khai của bị cáo D không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Ngày 19/10/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã ra Quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi của đối tượng Long để tiếp tục điều tra, xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe ô tô BKS 89A-11597 nhãn hiệu Hyundai, màu bạc, số máy G4LAHM559279, số khung: RLUG6SIDAHNO05201; 01 căn cước công dân mang tên Lộc Văn X; 01 Giấy phép lái xe hạng C mang tên Lộc Văn X; 01 Giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS 89A-11597; 01 Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS 89A-11597; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm xe ô tô BKS 89A-11597 đã thu giữ của Lộc Văn X. Qua xác minh chủ xe: Công ty cổ phần X Mạnh có địa chỉ: Thôn Hòa Bình, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông X Văn Mạnh - Giám đốc công ty đã giao chiếc xe ô tô trên cho anh Lộc Văn X quản lý, sử dụng để vận chuyển hàng khách hàng ngày. Ngày 03/6/2021, anh X không biết việc D cất giữ ma túy trên xe. Ngày 08/6/2021, Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe ô tô trên và toàn bộ giấy tờ xe nêu trên cho anh X. Anh X đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì.

Đối với chiếc điện thoại di động Realme C2 nắp lưng màu xanh, màn hình cảm ứng màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0971548138 thu giữ của Sái Văn Y không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 15/6/2021, Cơ quan điều tra đã trả chiếc điện thoại trên cho anh Sái Văn Y. Anh Y đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì.

Đối với chiếc điện thoại di động Samsung A20 màu đen, màn hình cảm ứng bị nứt đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số 0334517997 và 0838832836 thu giữ của X Quốc Việt và số tiền 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Khánh D không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 6 mặt lưng màu vàng, mặt trước là màn hình cảm ứng màu trắng đã cũ, đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0975742302 thu giữ của bị cáo Nguyễn Khánh D dùng để liên lạc mua ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 190/CT-VKSGL ngày 03 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Nguyễn Khánh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo xin lại số tiền 2.100.000 đồng bị thu giữ và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Khánh D từ 16 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/06/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6 mặt lưng màu vàng, mặt trước là màn hình cảm ứng màu trắng đã cũ, đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số thu giữ của bị cáo; hoàn trả bị cáo 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội; hoàn trả X Quốc Việt chiếc điện thoại di động Samsung A20 màu đen, màn hình cảm ứng bị nứt đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số thu giữ của Việt do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Cơ quan điều tra công an huyện K đã trao trả căn cước công dân, chiếc xe ô tô BKS 89A-11597 nhãn hiệu Hyundai và toàn bộ giấy tờ xe cho anh Lộc Văn X; trao trả chiếc điện thoại di động Realme C2 nắp lưng màu xanh, màn hình cảm ứng màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng cho Sái Văn Y là phù hợp quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh X Quốc Việt vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh Việt không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Việt.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 23 giờ 50 phút ngày 03/06/2021 tại khu vực trước cổng khu đô thị Vinhome Ocean Park, xã T, huyện K, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Khánh D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,533 gam để sử dụng, thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Methamphetamine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy. Theo Quyết định số 07/2018/QĐST-BPXLHC ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên, Nguyễn Khánh D bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 24 tháng, ngày 02/03/2021 chấp hành xong quyết định này, chưa được xóa. Tại Bản án số 78/2016/HSST ngày 12/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Hưng Yên, xử phạt Nguyễn Khánh D 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 30/03/2017 chấp hành xong hình phạt tù, đã xoá án tích. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 6 mặt lưng màu vàng, mặt trước là màn hình cảm ứng màu trắng đã cũ, đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số thu giữ của bị cáo là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Hoàn trả Nguyễn Khánh D số tiền 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Hoàn trả X Quốc Việt chiếc điện thoại di động Samsung A20 màu đen, màn hình cảm ứng bị nứt đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số thu giữ của Việt do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng Long theo bị cáo D khai sử dụng số điện thoại 0986143980 liên lạc và bán ma túy cho D, nhưng đến nay chưa có kết quả cung cấp dữ liệu điện tử đối với số điện thoại trên. Ngoài lời khai của bị cáo D không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Ngày 19/10/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã ra Quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi của đối tượng Long để tiếp tục điều tra, xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Đối với Sái Văn Y và Lộc Văn X đi cùng xe với Nguyễn Khánh D nhưng Y và X không biết D cất giữ ma túy trên xe. Qua xét nghiệm phát hiện Y và X âm tính với ma túy nên Công an huyện K không có căn cứ xử lý.

Đối với X Quốc Việt không biết Nguyễn Khánh D cất giữ ma túy trên xe. Qua xét nghiệm, X Quốc Việt dương tính với ma túy, Công an huyện K đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Việt theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khánh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh D 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/06/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1 Tịch thu, tiêu huỷ: 01 (Một) túi nilông có kích thước (03x03)cm bên trong chứa tinh thể mầu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,480 gam (đã trừ trích mẫu để giám định 0,053 gam) thu giữ của bị cáo Nguyễn Khánh D, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn Khánh D, cán bộ niêm phong, và dấu của Công an xã T, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định;

3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6 mặt trước là màn hình cảm ứng màu trắng, mặt lưng màu vàng, bên trong lắp sim số 0975742302 đã cũ, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Nguyễn Khánh D;

3.3 Hoàn trả anh X Quốc Việt: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20 màu đen, màn hình cảm ứng bị nứt, đã cũ, đã qua sử dụng bên trong lắp sim số;

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 04/11/2021).

3.4 Hoàn trả bị cáo Nguyễn Khánh D số tiền 2.100.000 đồng, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Số tiền 2.100.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2020/0054925 ngày 05/11/2021).

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Nguyễn Khánh D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh X Quốc Việt vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 202/2021/HS-ST

Số hiệu:202/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về