TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 03 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Ninh Bình; xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2024/TLST-HS ngày 22/02/2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2024/QĐXXST-HS ngày 14/3/2024 đối với bị cáo:
Phạm Văn C sinh năm 1974; nơi thường trú xóm 11, xã Ch, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi ở hiện tại xóm 4, xã Ch, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn Nh(đã chết) và bà Phạm Thị S; có vợ và 07 con; tiền án: Bản án số 86/2021/HSST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện K, xử phạt 24 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”, bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 16/5/2023; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 11/12/2023 đến ngày 20/12/2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.
Người chứng kiến: Ông Vũ Hồng S và ông Mai Ngọc P; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 11/12/2023, C đã đi bộ từ nhà rồi xin đi nhờ xe máy của người đi đường đến khu vực mé bờ sông gần ngã ba Q thuộc xã H, huyện K, tỉnh Ninh Bình tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây C gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 03 gói nhỏ ma túy loại Heroine với giá là 300.000 đồng. Sau đó, C bỏ số ma túy vừa mua được vào trong vỏ bao thuốc lá T và cất trong túi áo phía trước bên trái rồi C ra QL10 xin đi nhờ xe của người đi đường đến khu vực ngã tư K, huyện Y thì xuống xe đi bộ vào khu vực xóm Ch, xã K, huyện Yên Khánh để tìm nơi sử dụng ma túy. Khoảng 15 giờ cùng ngày, khi C đi đến ngã tư đường xóm Ch, xã K, huyện Y gặp tổ công tác Công an xã K, huyện Y đang làm nhiệm vụ, C sợ bị phát hiện hành vi cất giữ trái phép chất ma túy trong người nên đã đến gặp tổ công tác xin tự thú. Tổ công tác đã mời người chứng kiến việc C tự thú hành vi cất giữ trái phép chất ma túy trong người, C tự móc trong túi áo phía trước bên trái C đang mặc ra 01 vỏ bao thuốc lá T màu xanh bên trong có 03 gói nhỏ đều có đặc điểm được gói bên ngoài bằng giấy nilon màu hồng rồi đến lớp giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, C khai nhận là ma túy Heroine vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ vật chứng của C giao nộp cho vào 01 phong bì thư, dán kín niêm phong theo quy định, ký hiệu M. Sau đó, tổ công tác mời người chứng kiến và yêu cầu Phạm Văn C về trụ sở Công an xã K, huyện Y để lập biên bản theo quy định rồi chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu có liên quan cùng đối tượng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiến hành mở niêm phong phong bì ký hiệu M, cân xác định khối lượng và lấy toàn bộ khối lượng chất bột dạng cục màu trắng cho vào 03 túi nilon(ký hiệu M1, M2, M3)gửi trưng cầu giám định.
Tại Kết luận giám định số 16/KL-KTHS-MT ngày 19/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0255 gam, ký hiệu M2 có khối lượng 0,0191 gam, ký hiệu M3 có khối lượng 0,1287 gam. Tổng khối lượng các mẫu ký hiệu M1, M2, M3 là 0,1733 gam gửi giám định ký hiệu M1, M2, M3 đều là ma túy, loại Heroine (Heroine là chất ma túy được quy định tại Danh mục IA, số thứ tự thứ 9, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ).
Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKSYK ngày 21/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo Phạm Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm r, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù;
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số vật chứng đã thu giữ gồm: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định M3 = 0,0832 gam là ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 phong bì thư của Công an huyện Y dán kín niêm phong ký hiệu N bên trong có 03 mảnh giấy nilon màu hồng và 03 mảnh giấy bạc màu trắng dùng để gói chất ma túy thu của Phạm Văn C; 01 vỏ bao thuốc lá T.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận và bào chữa. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú cùng vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 11/12/2023 tại khu vực ngã tư đường xóm Ch, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình, Phạm Văn C đã tự thú với tổ công tác Công an xã K về hành vi cất giữ trái phép trên người 0,1733 gam ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Phạm Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
......
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến những quy định của nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Khi quyết định hình phạt cần phải xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng cho bị cáo đúng quy định của pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về tội “ Cố ý gây thương tích” nay chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã tự thú và thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
[3] Xét tính chất hành vi phạm tội, mức độ nguy hiểm cho xã hội, khối lượng chất ma tuý bị cáo tàng trữ; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn và buộc bị cáo phải cách ly xã hội trong một thời hạn nhất định đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo; đồng thời đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
Bị cáo phạm tội không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực ngã ba Q thuộc xã H, huyện K, tỉnh Ninh Bình, nhưng không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong ghi số 16/KTHS- MT là mẫu vật hoàn trả sau giám định gồm: 0,0832 gam, là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong và 01phong bì niêm phong bên trong có 03 mảnh giấy nilon màu hồng, 03 mảnh giấy bạc và 01 vỏ bao thuốc lá T; toàn bộ số vật chứng này cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[7] Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 21 (hai mươi mốt) tháng tù; thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giữ 11/12/2023.
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 16/KTHS-MT là mẫu vật hoàn trả sau giám định gồm: 0,0832 gam, là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong và 01phong bì niêm phong bên trong có 03 mảnh giấy nilon màu hồng, 03 mảnh giấy bạc và 01 vỏ bao thuốc lá T (vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 27/02/2024 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Ninh Bình).
Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2024/HS-ST
Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về