Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 14/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 3 năm 2024, tại Hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn Hợp Châu, huyện T, tỉnh V xét xử lưu động sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2024/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Lường Văn H, sinh ngày 07/4/1993 tại xã L, huyện B, tỉnh K; nơi cư trú: Thôn Bắc Lanh Chang, xã L, huyện B, tỉnh K; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn N và bà Trần Thị Ng (Đều đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền sự: Ngày 23/10/2010, Lường Văn H bị Công an huyện Bạch Thông xử phạt vi phạm hành chính 750.000đồng về hành vi gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. H chưa chấp hành; tiền án: 02. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 43/2016/HSST ngày 21/12/2016 Tòa án nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn xử phạt Lường Văn H 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc H phải bồi thường cho bà Đặng Thị M 43.800.000đồng, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng, án phí dân sự 2.190.000đồng nhưng đến nay H chưa bồi thường và nộp án phí, nên chưa được xóa án tích. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2020/HSST ngày 12/8/2020, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh V xử phạt H 02 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, trị giá tài sản trộm cắp 18.020.000đồng; bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngày 10/11/2020 H đã nộp án phí; ngày 11/3/2022 H chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích; Nhân thân: Ngày 07/5/2008 Lường Văn H bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn ra Quyết định số 518 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn là 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 01/6/2010 H đã chấp hành xong. Ngày 12/10/2012 Lường Văn H bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn ra Quyết định số 1672 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, thời hạn là 24 tháng về hành vi đánh nhau và trộm cắp tài sản. Ngày 05/02/2015 H đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/11/2023 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh V, “có mặt”.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Th, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh V, “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 01/11/2023, tại khu vực cổng trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú huyện T thuộc thôn Núc Hạ, xã S, huyện Đ, tỉnh V, tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Công an xã Hồ Sơn phát hiện, bắt quả tang Lường Văn H, sinh năm 1993, hộ khẩu thường trú tại thôn Bắc Lanh Chang, xã L, huyện B, tỉnh K đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm: Thu tại túi quần bên trái phía trước đang mặc của H 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 túi nilon màu trắng có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng, H khai nhận đây là gói ma túy tổng hợp vừa mua được với giá 300.000đồng mục đích để sử dụng, vật chứng được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật ký hiệu M1.

Cùng ngày 01/11/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định trưng cầu giám định số 359 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V giám định đối với mẫu ký hiệu M1. Tại bản Kết luận giám định số 2983/KL-KTHS ngày 05/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V, kết luận:“Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2255g (Không phảy hai hai năm năm gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine”.

Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: 0,1765 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Về nguồn gốc ma túy, Lường Văn H khai: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 01/11/2023, H đang chơi ở thôn Ngũ Hồ, xã K, huyện X, tỉnh V thì nảy sinh ý định sử dụng chất ma túy nên đã thuê xe ôm của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ đến khu vực gần cổng Trung tâm y tế huyện T thuộc thôn Núc Hạ, xã S, huyện Đ để tìm mua ma túy. Tại đây, H hỏi mua được của một người nam giới (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) 01 gói ma túy Methamphetamine với giá 300.000đồng. Sau khi mua được gói ma túy, H cất gói ma túy vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và đúc vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi bộ đến quán nước gần cổng trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú huyện T thuộc thôn Núc Hạ, xã S, huyện Đ, tỉnh V thì bị lực lượng Công an huyện T phát hiện, bắt quả tang.

Tại cơ quan điều tra, Lường Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số: 16/CT-VKSTĐ ngày 05 tháng 02 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Lường Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lường Văn H từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/11/2023.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy do Phòng kỹ thuật Công an tỉnh V hoàn trả sau giám định = 0,1765 gam.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện gia đình bị cáo hiện gặp nhiều khó khăn, bố mẹ đều đã chết nên xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt để cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình.

Bị cáo không tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Lường Văn H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ được thu thập khách quan, đúng pháp luật. Từ đó có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 01/11/2023, tại đường tỉnh lộ 302 khu vực cổng trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú huyện T thuộc thôn Núc Hạ, xã S, huyện Đ, tỉnh V, Lường Văn H bị bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, qua giám định xác định có khối lượng 0,2255g, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo Lường Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tội phạm và hình phạt được quy định như sau:

“2, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

o) Tái phạm nguy hiểm”.

[4] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Lường Văn H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách về quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, chất gây nghiện, việc tàng trữ để sử dụng không những ảnh hưởng tới sức khỏe của bị cáo mà còn gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội. Trước tình hình các tội phạm về ma túy mặc dù đã được đấu tranh, xử lý nghiêm khắc nhưng vẫn không giảm mà có chiều hướng tăng lên, gây ra nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Do vậy, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc xem xét đến tính chất cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét đến nhân thân của bị cáo, thấy rằng:

Về nhân thân: Ngày 07/5/2008, H bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn ra Quyết định số 518 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn là 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 23/10/2010, H bị Công an huyện Bạch Thông xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Ngày 12/10/2012, H bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn ra Quyết định số 1672 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, thời hạn là 24 tháng về hành vi đánh nhau và trộm cắp tài sản.

Về tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 43/2016/HSST ngày 21/12/2016 Tòa án nhân dân huyện Bạch Thông xử phạt H 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2020/HSST ngày 12/8/2020 Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh V xử phạt H 02 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản” và bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” nên lần này phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”.

Thấy rằng, bị cáo đã 02 lần bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện thái độ coi thường pháp luật nên cần xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo và bị cáo xin xử phạt ở mức thấp nhất của khung hình phạt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm về xử lý vật chứng, không áp dụng hình phạt bổ sung của Viện kiểm sát nhân dân huyện T là có căn cứ phù hợp theo quy định của phát luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông bán ma túy và người lái xe ôm cho H, quá trình điều tra xác định H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể vì vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý trong vụ án này là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy Methamphetamine do Phòng kỹ thuật Công an tỉnh V hoàn trả sau giám định = 0,1765 gam.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lường Văn H phải chịu theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNHr

 Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lường Văn H 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 01/11/2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đối với 01 mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật Công an tỉnh V hoàn trả sau giám định ký hiệu M1 = 0,1765 gam cùng bao gói niêm phong.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm như Biên bản giao, nhận tài liệu vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện T lập ngày 23 tháng 02 năm 2024.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lường Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2024/HS-ST

Số hiệu:20/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về