TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 3 năm 2023, tại Nhà văn hóa T2, phường H, thành phố P, Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2023/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2023/QĐST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Lê Trọng T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 18 tháng 6 năm 1987; Nơi sinh: Huyện H, tỉnh Phú Thọ; cư trú tại: Phường Đ, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 09/12; Đảng, đoàn thể: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Văn B và bà Trần Thị H; có vợ là Trần Thị Thanh G và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15 tháng 12 năm 2022 đến nay, “có mặt”.
Những người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Anh Đào Anh B1 “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 15 tháng 12 năm 2022, Lê Trọng T đang đi lang thang ở khu vực bến xe P thuộc phường H, P, Vĩnh Phúc thì có nhu cầu sử dụng ma túy Heroine. Tại đây, T gặp và mua 01 túi ma túy Heroine với giá 200.000 đồng của một người đàn ông không rõ danh tính, địa chỉ cụ thể. Sau khi mua được ma túy, T cầm túi ma túy cất vào túi áo khoác bên phải đang mặc và tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, khi T đang đi đến một quán nước ở khu vực bến xe P thì bị Công an thành phố P kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng, gồm:
- T1 tại túi áo khoác bên phải đang mặc của Lê Trọng T có 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các cục bột màu trắng, được cho vào phong bì ký hiệu A1 niêm phong theo quy định.
- Thu giữ mẫu nước tiểu của Lê Trọng T đựng trong 01 chai nhựa có nắp đậy kín được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.
Tại Bản kết luận giám định số 3692/KL-KTHS ngày 19 tháng 12 năm 2022 của Phòng K Công an tỉnh V, kết luận: “Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1981g (Không phảy một chín tám một gam, không kể bao bì), loại Heroine”. Cơ quan giám định đã hoàn lại A1 = 0,1575 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói.
Tại bản Kết luận giám định số 3711/KLGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2022 của Phòng K Công an tỉnh V đối với mẫu nước tiểu thu giữ của Lê Trọng T, kết luận: “Tìm thấy chất ma túy Morphine trong mẫu nước tiểu thu của Lê Trọng T, SN 1987, HKTT: phường Đ, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc gửi đến giám định. Morphine là chất ma túy nằm ở danh mục IIA, STT 55, Nghị định số 57/2022/NĐ- CP ngày 25 tháng 8 năm 2022 của Chính phủ”. Cơ quan giám định hoàn lại 0,00ml mẫu cùng bao gói được niêm phong kín.
Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKSPY ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Lê Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Trọng T về tội danh như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo qui định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Điều tra viên của Cơ quan điều tra – Công an thành phố P, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, trưng cầu giám định, lấy lời khai của bị can và những người tham gia tố tụng, kết luận điều tra, ban hành cáo trạng. Thời hạn điều tra, truy tố đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo không ai có khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Vì vậy, hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như sau: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 15 tháng 12 năm 2022, tại khu vực bến xe P, thuộc địa phận phường H, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, Lê Trọng T đang có hành vi cất giấu tại túi áo khoác bên phải đang mặc 01 gói ma túy (loại Heroine) có khối lượng 0,1981 gam với mục đích để sử dụng thì bị Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng toàn bộ vật chứng.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác. Phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định khối lượng Heroine của Phòng K - Công an tỉnh V,...Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã truy tố bị cáo Lê Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, không oan sai.
Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
c)…Heroine..có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện, ăn chơi đua đòi ngang nhiên mua ma túy (Heroine) với mục đích sử dụng cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Đặc biệt hiện nay tệ nạn ma túy trong cả nước nói chung cũng như ở địa bàn thành phố P diễn biến ngày càng phức tạp gây nhiều hậu quả xấu, tác động trực tiếp vào từng cá nhân, từng gia đình và toàn xã hội. Tệ nạn ma túy kéo theo một loạt các tội phạm như: Trộm cắp, giết người, chiếm đoạt tài sản…và rất nhiều các loại bệnh tật nguy hiểm, trong đó có căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo Lê Trọng T là người có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Không. Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành một công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với người đàn ông T khai đã bán ma túy cho T, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng đến nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo Lê Trọng T làm nghề tự do không có thu nhập ổn định, tài sản do vậy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,1575 gam mẫu ma túy và toàn bộ bao gói niêm phong hoàn trả sau giám định cần tịch thu, tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo Lê Trọng T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên tại phiên tòa về tội danh cũng như mức hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Lê Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Trọng T 01 (Một) năm 07 (B2) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 15 tháng 12 năm 2022.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy 0,1575 gam mẫu ma túy, chai nhựa cùng toàn bộ bao gói niêm phong hoàn trả sau giám định.
Các vật chứng, tài sản nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận tài sản, vật chứng số 41 lập ngày 27 tháng 02 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Lê Trọng T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2023/HS-ST
Số hiệu: | 20/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về