Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 25/02/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐXXST-HS ngày 06/4/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Nguyễn Minh D , sinh năm 1986, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký HKTT: Số , huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; Trình độ văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị L; Có vợ là Huỳnh Thị Bảo H và có 02 con (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2017);

Tiền án: Ngày 26/7/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 51/2011. Vụ án bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long kháng nghị. Ngày 26/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm, xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Minh D 07 năm tù theo bản án số 62/2011/HSPT. Phạm Nguyễn Minh D đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/3/2016 và nộp án phí hình sự theo quy định.

Ngày 28/6/2019, Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Minh D 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 35/2019/HS-ST. Phạm Nguyễn Minh D đã chấp hành xonh bản án.

Tiền sự: không; Nhân thân: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2021 đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/11/2021 Phạm Nguyễn Minh D đi xe ôm đến ngã ba Cây Dừa (gần cầu Nhị Thiên Đường), phường 14, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông tên N (không xác định được nhân thân, lai lịch) mua 01 gói ma túy đá giá 200.000đ, N cho D thêm 01 gói ma túy dạng Khay để sử dụng. Sau khi mua ma túy, D lấy gói ma túy đá sử dụng hết, còn gói ma túy dạng Khay thì D bỏ vào bóp màu đen của D. Đến khoảng 8 giờ ngày 23/11/2021, D lấy bóp bỏ vào túi quần đang mặc và đón xe ôm đến ngã ba Cây Dừa gặp N mua 02 gói ma túy đá với giá 400.000đ. D cất số ma túy vừa mua vào túi quần đang mặc và đón xe về phòng trọ của mẹ ruột tại phường Tân Thuận, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến 13 giờ 20 phút cùng ngày, D lấy xe biển số 59K2-X đi đến số nhà 1627/30 đường Huỳnh Tấn Phát, khu phố 3, phường Phú Mỹ, quận 7 chở Huỳnh Thị Bảo H đi ăn. Khi cả hai đang ngồi trong quán ăn trước số nhà 12/7, tổ 9, ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè thì bị Công an huyện Nhà Bè kiểm tra bắt quả tang D đang tàng trữ ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 6355/KLGĐ-MT ngày 01/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự CATP Hồ Chí Minh kết luận:

Tinh thể không màu trong một gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Nguyễn Minh D và hình dấu Công an xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy thể rắn, khối lượng 0,0161g, loại Ketamine Tinh thể không màu trong 02 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Nguyễn Minh D và hình dấu Công an xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy thể rắn, khối lượng 0,4404g, loại Methamphetamine Tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKS-NB ngày 23/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Phạm Nguyễn Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản cáo trạng truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Minh D mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau khi lấy mẫu vật giám định và 01 cài bóp màu đen. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động VSMART và 01 chiếc xe mô tô biển số 59K2-X.

Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 15 giờ 50 phút ngày 23/11/2021, tại khu vực trước số nhà 12/7, tổ 9, ấp 3, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Nguyễn Minh D đang có hành vi tàng trữ 0,4404g ma túy Methamphetamine và 0,0161g ma túy Ketamine để sử dụng thì bị Công an huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất giữ ma túy để sử dụng bị nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử, đáng lẽ bị cáo phải lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân nhưng lại tiếp tục đi và con đường phạm tội, chứng tỏ ý thức coi thường kỷ cương pháp luật. Vì vậy cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Khối lượng ma túy heroin thu giữ của bị cáo, sau khi lấy mẫu vật giám định, khối lượng còn lại 0,3513 Methamphetamin là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc ví màu đen không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại di động hiệu VSMART thu giữ của bị cáo, đây không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với chiếc xe mô tô biển số 59K2-176.28 bị cáo mua ngày của anh Vũ Minh L. Việc mua bán có lập Hợp đồng mua bán, được công chứng tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Văn T vào ngày 18/10/2021. Chiếc xe không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Đối với người đưa ma túy cho D do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Đối với Huỳnh Thị Bảo H không biết D mua, tàng trữ ma túy nên không phạm tội.

[8] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/11/2021.

- Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau khi giám định được niêm phong và có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra (KH1373/21 Nhà Bè) gồm có : m1 đã sử dụng hết và tinh thể không màu (m2) có tổng khối lượng 0,3513g và 01 ví da màu đen, đã qua sử dụng;

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Nguyễn Minh D 01 điện thoại di động hiệu VSMART, màu xanh, số Imei1: 354581110091452; Imei2: 354581110091460, tình trạng điện thoại đã qua sử dụng và 01 chiếc xe mô tô biển số 59K2-X màu đen - cam, số máy KC26E1038802, số khung: 2604GY028835, tình trạng xe đã qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo phiếu nhập kho số 2022-NK24 ngày 17/02/2022).

- Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Nguyễn Minh D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về