Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST-HS ngày 18/11/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng Thị P; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; sinh năm 1978; Nơi sinh: Huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản T, xã H, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 0/12; Con ông Vàng A D, sinh năm 1952 và con bà Giàng Thị C, sinh năm 1960; Gia đình có 07 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Chồng: Thào A S, đã chết; con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/7/2021 đến ngày 25/7/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Hố Mít, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo: Anh Thào A S, sinh năm 1987; địa chỉ: Bản Hua C, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi công tác: Ủy ban nhân dân xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 16/7/2021 Vàng Thị P đi từ nương ngô nhà mẹ đẻ tại bản Che Bó, xã Phúc Than, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu để về nhà tại Bản Thào, xã Hố Mít, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, P nhờ em gái chở về. Khi về đến khu vực cây xăng thuộc bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên thì em gái quay về bản Che Bó, xã Phúc Than còn P một mình đi bộ về nhà, vừa đi vừa gọi con trai đến đón. Trên đường về P gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, không rõ nhân thân lai lịch tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than. Tại đây, người phụ nữ hỏi P có mua Heroine không, P hỏi “ Bao nhiêu, tôi chỉ có một trăm thôi”. Nghe P nói vậy thì người phụ nữ đồng ý bán Heroine cho P, P đưa 100.000 đồng cho người phụ nữ và người phụ nữ đưa lại 02 gói Heroine đều được gói bằng mảnh nilon màu hồng. P cầm trên tay trái với mục đích mang về sử dụng. Sau đó, P gặp một người đàn ông dân tộc Mông đang điều khiển xe đi về hướng xã Hố Mít nên P xin đi nhờ thì người đàn ông đồng ý, P không nói cho người đàn ông điều khiển xe là đang tàng trữ Heroine. Đến 17 giờ 50 phút cùng ngày, khi đi về đến khu vực bản Mít Thái, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên thì bị tổ công tác Công an huyện Tân Uyên đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe kiểm tra. Khi P vừa xuống xe thì người đàn ông đã điều khiển xe tăng ga bỏ chạy. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ 02 gói Heroine đều được gói bằng mảnh nilon màu hồng P đang cầm trên tay trái, mục đích để sử dụng.

Ngày 16/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Tại bản kết luận giám định số 69/KLGĐ ngày 17/7/2021 của Công an huyện Tân Uyên, kết luận: Vật chứng nghi là chất ma túy thu giữ của Vàng Thị P có khối lượng là: 02 gói chất bột màu trắng, gói thứ nhất có khối lượng 0,08 gam; gói thứ hai có khối lượng 0,11 gam. Tổng khối lượng số chất bột màu trắng là 0,19gam. Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã trích toàn bộ chất bột màu trắng thu giữ của Vàng Thị P để gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số 639/GĐ-KTHS ngày 24/72021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: hai mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu mẫu 1, mẫu 2) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Bản cáo trạng số 93/CT-VKS-TU ngày 11/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Vàng Thị P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 08 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt vì bị cáo rất thành khẩn khai báo, là người dân tộc thiểu số, không biết chữ, không nói được tiếng phổ thông, là phụ nữ, chưa có tiền án, tiền sự.

Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 17 giờ 50 phút ngày 16/7/2021 tại bản Mít Thái, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu bị cáo Vàng Thị P đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,19 gam mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Tân Uyên phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, quan điểm về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi thực hiện hành vi bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn nên cần được xử lý nghiêm minh.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo không đi học nên không biết chữ, là người đồng bào dân tộc thiểu số.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ học vấn không biết chữ nên nhận thức pháp luật rất hạn chế. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian trên mức khởi điểm của khung hình phạt để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Do vậy, đề nghị của người bào chữa Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng bị cáo nghề nghiệp làm ruộng, nguồn thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,19 gam Heroine thu giữ của bị cáo Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã trích toàn bộ gửi giám định chất ma túy, sau khi có kết luận giám định không hoàn lại mẫu vật. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

02 mảnh nilon màu hồng xét thấy cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc số Heroine bị cáo khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ nhân thân lai lịch với số tiền 100.000 đồng. Quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để xử lý.

Sau khi mua Heroine bị cáo đi nhờ xe một người đàn ông dân tộc Mông không rõ nhân thân lai lịch, khi phát hiện người đàn ông bỏ chạy. Quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Thị P phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù, trừ 09 (Chín) ngày tạm giữ, còn lại bị cáo phải chấp hành 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư làm bằng phong bì của Công an huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu bên trong đựng 02 mảnh nilon màu hồng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 09 giờ 05 phút ngày 16/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên)

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2021/HS-ST

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về