Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/HSST ngày 26 tháng  10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST - HS  ngày 27 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vì Văn D - Sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Vì Văn L (đã chết) và bà Vì Thị C1; Có vợ là Lò Thị N và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm  2016); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 23/8/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Thị N, sinh năm 1986. Trú tại: Bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 15 phút, ngày 23/8/2021 tổ công tác Công an huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản B1, xã K, huyện S phát hiện Vì Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ được 06 viên nén màu hồng trong ví của D cất  tại túi quần đùi phía trước đang mặc, D khai nhận là hồng phiến. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô BKS 27B1- 988.99 và 01 ví giả da.

Ngày 23/8/2021 tại Công an huyện S, tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, tiến hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: 06 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 0,51 gam, trích 02 viên có khối lượng 0,17 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu D. Còn lại 04 viên có ký hiệu D1.

Tại Kết luận giám định số 1438 ngày 24/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy; Loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,51 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo Vì Văn D khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày  22/8/2021 D đem theo số tiền 100.000đ điều khiển xe mô tô BKS 27B1- 988.99 đi từ nhà lên bản B2, xã C, huyện S để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến bản B2 thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đi bộ ở ngoài đường, D hỏi mua được 06 viên hồng phiến với giá 100.000đ từ người đàn ông này. Sau khi mua được ma túy D để vào trong ví giả da và cất vào túi quần đùi đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Khi về đến khu vực bản B1, xã K, huyện S thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 148/CT-VKS ngày 26 tháng  10 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Vì Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ  điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Vì  Văn D từ 18 – 24 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định, 01 túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng đã bóc mở, trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 01 xe mô tô BKS 27B1- 988.99. Miễn án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Chị là vợ của bị cáo Vì Văn D, chiếc xe mô tô bị thu giữ trong vụ án do vợ chồng chị mua lại tại cửa hàng xe máy cũ vào năm 2019 bằng tiền tiết kiệm của cả hai vợ chồng, xe chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Khi bị cáo sử dụng xe vào việc đi mua ma túy chị không biết, nay chị đề nghị HĐXX cho chị được xin lại xe mô tô.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời  sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và đề nghị  HĐXX trả lại chiếc xe mô tô cho vợ bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau  - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 00 giờ 20 phút, ngày  23/8/2021 đối với Vì Văn D cùng vật chứng bị thu giữ là 06 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1438 ngày 24/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “… Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,51 gam, loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã sử dụng thường xuyên sử dụng ma tuý nên đêm ngày 22/8/2021 đã mua của một người đàn ông không quen biết được 06 viên hồng phiến với giá 100.000đ, sau khi mua được đang trên đường vận chuyển về để cất giấu sử dụng dần thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày  23/8/2021 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,51 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản  1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khối lượng ma túy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng 01 túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 ví giả da là những vật Nhà nước cấm tàng trữ và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô BKS 27B1- 988.99 xác định được là tài sản chung hợp pháp của vợ chồng bị cáo, khi bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội vợ bị cáo không biết nên cần trả lại cho vợ bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật  Hình sự; Khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vì Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vì Văn D 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, thời hạn tạm  giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án (10/11/2021).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,34 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi nilon màu trắng, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu trắng; Tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 046474 cùng 01 chiếc ví giả da màu đen, nhãn hiệu GUCCI.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 01 xe mô tô dán nhãn  ESPERO, có BKS 27B1- 988.99  Theo Quyết định chuyển vật chứng số 145/QĐ – VKS ngày 26/10/2021  của VKSND huyện Sông Mã và theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày  27/ 10/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3.  Về  án  phí:  Căn  cứ  điểm  đ  khoản  1  Điều  12  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án  trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10/11/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2021/HS-ST

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về