TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 200/2021/HS-ST NÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 224/2021/TLST-HS, ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Minh T, sinh năm 1996 tại Kiên Giang; Hộ khẩu thường trú: ấp Hòa Xuân, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang; Tạm trú: Khu phố 2, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 07/12; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc V, sinh năm 1969 và bà Trang Cẩm X, sinh năm 1968; Tiền án: Ngày 17/10/2019, bị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 38/2019/HS-ST, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/9/2020, chấp hành xong việc nộp án phí ngày 20/12/2019, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 03/8/2021 sau đó tạm giam đến nay; có mặt.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh L; Ông Nguyễn Bá A; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Minh T là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2016, loại ma túy T thường sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine).
Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 02/8/2021, do cần ma túy sử dụng nên T đi bộ từ phòng trọ ở khu phố 2, phường H, thị xã T đến Khu công nghiệp Nam T mở rộng để tìm đối tượng tên C (không rõ nhân thân) là người thường bán ma túy cho T để hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá để sử dụng. Khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, T gặp C và hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá, thì C đồng ý. Sau đó, T đưa C 500.000 đồng, C đưa lại cho T 01 (Một) gói nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, sau đó C đi đâu không rõ. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu gói nylon miệng kéo dính bên trong chứa ma túy đá vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đi bộ về phòng trọ để sử dụng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, khi T đi bộ về đến chốt kiểm soát dịch Covid – 19 tại đường 12/1 thuộc khu phố 1, phường H, thị xã T thì bị lực lượng công an phường H đang trực chốt phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T lấy trong túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 (Một) gói nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng ra giao nộp cho lực lượng Công an phường. T khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá mua của C và cất giấu trong người để sử dụng. Lực lượng Công an tiến hành niên phong gói nylon miệng kéo dính nêu và mời T về trụ sở Công an phường làm việc và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 (Một) gói nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng.
Công an phường H, thị xã T lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao Phạm Minh T cùng hồ sơ và vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.
Tại Bản kết luận giám định số 518/MT-PC09 ngày 10/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (Một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Minh T là ma túy, có khối lượng 1,4808 gam, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, bị cáo Phạm Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại cáo trạng số 230/CT-VKS.TU ngày 27/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Về mức hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo:
+ Bị cáo Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
2. Biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Đối với ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.
Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất bản luận tội của Kiểm sát viên và không tranh luận gì thêm.
Trong phần trình bày lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Đối với những người làm chứng đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do. Xét thấy, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử vụ án. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người làm chứng.
[3] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Minh T khai nhận: Ngày 02/8/2021, tại khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Phạm Minh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,4808gam với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đủ yếu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét về tính chất vụ án:
Methamphetamine là một trong những chất được xác định là ma túy, có tác hại lớn đối với sức khỏe người sử dụng, làm cho người nghiện bị giảm sút tinh thần và khi lên cơn nghiện dễ có hành vi phạm tội. Ma túy từ lâu đã là kẻ thù của nhân loại, là gánh nặng cho cộng đồng xã hội. Mọi hành vi “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy” đều được xem là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần bị xử lý kịp thời và nghiêm minh. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ý thức được tác hại của ma túy đối với xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bản thân nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp, là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Do đó, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo, rèn luyện trở thành công dân có ích và cai nghiện chất ma túy.
[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cần xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phạm Minh T có 01 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích” chưa được xóa án, tiếp tục phạm tội nên áp dụng tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy đinh tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Xét mức hình phạt do vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có cơ sở nên chấp nhận.
[7] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, - Đối với 01 bì thư niêm phong ký hiệu 518/PC09 bên trong chứa 1,2917 gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 518/MT-PC09 ngày 10/8/2021 của Phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Bình Dương là vật cấm tàng, lưu hành trữ nên tịch thu, tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố Phạm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38; Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Phạm Minh T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/8/2021.
3. Về vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, - Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư niêm phong ký hiệu 518/PC09 bên trong chứa 1,2917 gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 518/MT-PC09 ngày 10/8/2021 của Phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Bình Dương.
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01-11-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc bị cáo Phạm Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 200/2021/HS-ST
Số hiệu: | 200/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về