Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 198/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 198/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 184/2021/TLST- HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 197/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Ngọc Văn Q, sinh năm 1992; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn Phai L, xã Hạnh M, thị xã Nghĩa N, tỉnh Yên Bái; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mường; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Ngọc Văn Quyển, sinh năm 1967; họ tên mẹ: Hà Thị Khoa, sinh năm 1968; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 02/06/2021 đến ngày 11/06/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. L Văn T, sinh năm 1997; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn Phai L, xã Hạnh M, thị xã Nghĩa N, tỉnh Yên Bái; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: L Văn Nay, đã chết; họ tên mẹ: L Thị Lử, sinh năm 1977; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 02/06/2021 đến ngày 11/06/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 02/6/2021, tại khu vực J, T, K, Hà Nội, Tổ công tác đội CSĐTTP về Ma túy - Công an huyện K phối hợp cùng Công an xã T, K phát hiện L Văn T điều khiển xe máy Honda Wave BKS 98N9 - 4033 phía sau chở Ngọc Văn Q có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra, Tổ công tác phát hiện Q thả 01 túi nilon màu trắng, bên trong có 03 gói giấy màu trắng xuống đất, Tổ công tác yêu cầu Q nhặt lên. Q khai nhận là ma túy Q và T vừa mua để sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Ngọc Văn Q: 01 túi nilong trắng kích thước khoảng (6x6) cm bên trong có 03 gói nhỏ đều được bọc bằng giấy màu trắng, bên trong 03 gói nhỏ đều có chứa chất bột màu trắng.

- Thu giữ của L Văn T: 01 xe máy kiểu dáng Honda Wave màu xanh đeo BKS 98N9 – 4033, đã qua sử dụng, số máy: 005952, số khung: không.

Tại Kết luận giám định số 4485/KLGĐ – PC09 ngày 08/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 03 gói giấy màu trắng đều là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,234 gam.

Tại cơ quan điều tra, Ngọc Văn Q và L Văn T đều khai nhận: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 02/06/2021, tại phòng trọ ở thị trấn Q Minh, O, Hà Nội, Q rủ T đi mua ma túy về cùng sử dụng và thống nhất mỗi người góp 150.000 đồng. Do T không có tiền nên Q cho T vay 150.000 đồng; T đồng ý. T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo BKS 98N9 – 4033 chở Q lên khu vực Từ M, Bắc Ninh để mua ma túy. Tại đây, T dừng xe lại ở ven đường rồi Q đi bộ đến gặp và mua 03 gói ma túy Heroine với giá 300.000 đồng của người đàn ông không rõ nhân thân đứng ven đường. Sau khi mua được ma túy Q cầm ở trong Lng tay trái và đi ra chỗ T đứng đợi, sau đó T điều khiển xe máy chở Q đi tìm chỗ sử dụng khi đi đến khu vực nghĩa trang thôn M, T, K, Hà Nội thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Ngọc Văn Q, do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo BKS: 98N9 - 4033 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo L Văn T; T khai là mượn của anh Nguyễn Ngọc Tuấn, sinh năm 1983; trú tại: Ninh Hợi, Tân Dân, Sóc M, Hà Nội. Anh Tuấn khai mua chiếc xe trên vào tháng 03/2021 nhưng đã làm mất giấy đăng ký xe máy. Qua tra cứu BKS: 98N9 – 4033 xác định xe máy nhãn hiệu Passion, số khung 008797, số máy 008797, người đứng tên đăng ký là anh Nguyễn Văn Quảng, sinh năm 1971; trú tại: T, P, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Khoảng năm 2017, anh Quảng đã bán chiếc xe máy nhãn hiệu Passion BKS 98N9 – 4033 cho một người đàn ông không quen biết. Cơ quan Công an đã tiến hành tra cứu số máy: 005952 thì không có kết quả. Ngày 24/9/2021, cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã ra Quyết định xử lý vật chứng tách tài liệu liên quan đối với chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 189/CT-VKSGL ngày 01 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố các bị cáo Ngọc Văn Q và L Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ngọc Văn Q từ 16 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/06/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Q.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo L Văn T từ 14 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/06/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của các bị cáo.

Do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp, Cơ quan CSĐT – Công an huyện K đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo BKS: 98N9 - 4033 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo L Văn T để tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, các bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 02/6/2021, tại khu vực J, T, K, Hà Nội, bị cáo Ngọc Văn Q và L Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine có khối lượng 0,234 gam để sử dụng thì bị Cơ quan công an bắt giữ cùng vật chứng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố các bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm ma tuý. Các bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về đồng phạm: Đây là một vụ án hình sự mang tính chất đồng phạm giản đơn do hai bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, trong đó: Ngọc Văn Q là người khởi xướng; L Văn T là người thực hành tích cực. Nên các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình đã gây ra và cùng phải chịu một chế tài do điều luật đó quy định, song về nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự liên quan đến bị cáo nào thì áp dụng đối với riêng bị cáo đó.

[3.3] Về nhân thân các bị cáo:

Các bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, các bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với t ừng bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên toà thể hiện: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của các bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo BKS: 98N9 - 4033 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo L Văn T: Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy, Ngọc Văn Q không biết tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngọc Văn Q và L Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ngọc Văn Q 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/06/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Q.

2.3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo L Văn T 12 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 02/06/2021.

2.4. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,208 gam (đã trừ trích mẫu giám định 0,026 gam), đựng trong 01 gói niêm phong có chữ ký của Ngọc Văn Q và chữ ký của Giám định viên do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Ngọc Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo L Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 198/2021/HS-ST

Số hiệu:198/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về