TÒA ÁNNHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 194/2022/HS-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 203/2022/TLST- HS ngày 19/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2022/QĐXXST- HS ngày 19/8/2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1983;
HKTT: Khu K, phường K, TP. B, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1962; vợ: Phạm Thị O, sinh năm 1989 (đã ly hôn), con: Có 01 con, sinh năm 2006; tiền án: Có 03 tiền án, là: Bản án số 115/2012/HSST ngày 25/5/2012, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 24 tháng tù về tội :”Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 20/8/2014; Bản án số 55/2012/HSST ngày 25/4/2016, Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh B xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” . Ra trại ngày 05/3/2017 và Bản án số 10/2018/HSST ngày 07/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 34 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ra trại ngày 05/02/2021; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 14 giờ 20 phút ngày 18/05/2022, tại khu 3, phường T, thành phố B, tỉnh B, Công an phường T, thành phố B kiểm tra, phát hiện và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ: Thu tại tay trái của H đang cầm có 02 túi nilon màu trắng gồm 01 túi nilon màu trắng có chứa 02 viên nén màu đỏ cùng chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 viên nén màu đỏ cùng chất tinh thể màu trắng. Cơ quan Công an cho vào niêm phong dán kín trong phong bì thư, trên mép dán có chữ ký của H và những người làm chứng theo quy định của pháp luật.
Kết luận giám định số: 692/KL- KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:
"03 viên nén màu đỏ bên trong 02 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,3087 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine;
Chất tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,2185 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine".
Tổng khối lượng chất ma túy là 0,5272 gam Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất.
Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 14 giờ ngày 18/05/2022, H đi bộ từ nhà ở Khu K, phường K, thành phố B, tỉnh B đến khu 3, phường T, thành phố B, tỉnh B, Công an phường T, thành phố B để mua ma túy Methamphetamine về sử dụng cho bản thân. H đi vào trong 1 ngõ nhỏ đến nay H không nhớ là ngõ nào, H đi đến 1 ngôi nhà 1 tầng có cửa sắt đóng cửa kín, H gọi vào trong nhà hỏi mua 500.000 đồng ma túy Methamphetamine, người đàn ông trong nhà đồng ý. H đưa qua khe cửa 500.000 đồng, người đàn ông ở trong nhà nhận tiền và đưa lại cho H 02 túi nilon màu trắng gồm 01 túi nilon màu trắng có chứa 02 viên nén màu đỏ cùng chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 viên nén màu đỏ cùng chất tinh thể màu trắng. H nhận túi ma túy cầm ở tay trái rồi đi bộ về nhà. Khi H đi được 1 đoạn thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố B kiểm tra, phát hiện và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên. H khai nhận số ma túy trên Hà mua với mục đích để sử dụng cho bản thân.
* Tại cáo trạng số: 139/CT-VKSTPBN ngày 19/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên toà, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Luận tội và đề nghị như sau:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 18/5/2022.
Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số: 692/KL- KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;
*. Sau khi nghe bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa, mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đúng như bản luận tội đã nêu.
Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Nhận thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng đã được thu hồi, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Hồi 14 giờ 20 phút ngày 18/05/2022, tại khu 3, phường T, thành phố B, tỉnh B, Công an phường T, thành phố B kiểm tra, phát hiện và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 0,5272 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện để về sử dụng, chứng tỏ bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.
[2]. Về nhân thân, tính chất, mức độ của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Nhận thấy, dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào (vì tình tiết tái phạm nguy hiểm đã được tính vào là tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo), nhưng tính chất và mức độ tội phạm của bị cáo gây ra là nguy hại rất lớn cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây bức xúc, phẫn nộ và hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải có mức hình phạt thật nghiêm tương ứng, cho bị cáo cách ly xã hội một thời gian, để có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng, răn đe phòng ngừa chung, không tạo ra tiền lệ xấu, ngăn chặn sự gia tăng loại tội phạm nguy hiểm này và góp phần làm trong sạch, lành mạnh đời sống xã hội và niềm tin vào pháp luật của nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự thì còn có thể phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có thu nhập và bị nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[4]. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét thấy số vật chứng, là: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 692/KL- KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng KTHS Công an tỉnh B là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5]. Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho H. H không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được con người cụ thể, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Do đó, không đề cập xem xét.
[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
1.1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày 18/5/2022.
Tiếp tục tạm giam bị cáo với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, để đảm bảo việc thi hành án.
2. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận giám định số 692/KL- KTHS ngày 20/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B;
Toàn bộ vật chứng nêu trên được mô tả theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 194/2022/HS-ST
Số hiệu: | 194/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về