Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 193/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 193/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 195/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Tuấn P, sinh năm 1983; HKTT: Thôn T, xã E, huyện L, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Tuấn Quý, sinh năm 1953 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1954, có vợ Phạm Thị X, sinh năm 1990, có 03 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 341, lập ngày 21/7/2023 của Công an huyện K, TP H: 01 tiền án ngày 21/7/2020 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh T xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và phải bồi thường cho ông Ngô Văn Quyền 1.590.000 đồng. Ngày 08/9/2021, chấp hành xong hình phạt tù. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo P thuộc trường hợp tái phạm. Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 11/7/2023 đến ngày 20/7/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố H. “Có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bản thân P là người nghiện ma túy từ năm 2018. Khoảng 12 giờ 00 Pt ngày 11/7/2023, P điều khiển xe máy kiểu dáng Honda Dream đeo BKS: 36H2 - xxxx đi từ khu vực thị trấn Q, K, H đến khu vực Đình Bảng, S, B tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực S, B, P thấy có một người đàn ông đang đứng ven đường, P hỏi mua 01 (một) gói ma túy của người đàn ông này với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, P điều khiển xe máy đi về hướng H tìm nơi sử dụng. Khi P đi đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường, K, H thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số 4756/KL-KTHS ngày 18/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại Heroine có khối lượng 0,271 gam.” Bản cáo trạng số 201/CT-VKSGL ngày 11/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Tuấn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo P khai nhận hành vi đúng như cáo trạng truy tố, không sửa đổi hay bổ sung gì thêm.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ nguyên quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Phạm Tuấn P có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 BLTTHS xử phạt bị cáo P từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ 11/7/2023. Về hình phạt bổ sung do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên đề nghị không áp dụng. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chứa ma túy loại heroin có khối lượng 0,227 gam hoàn lại sau giám định; 01 chiếc biển kiểm soát 36H2 - xxxx. Trả lại bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen bên trong gắn sim số 058683xxxx do không sử dụng vào việc phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì khác về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Xét bị cáo P bị bắt quả tang, thu giữ ma túy đã được giám định theo quy định của pháp luật có khối lượng 0,271 gam Heroine. Tại phiên tòa bị cáo P thừa nhận toàn bộ hành vi của mình phù hợp với tài liệu chứng cứ khác gồm Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, đủ cơ sở kết luận vào hồi 13 giờ 30 ngày 11/7/2023 tại khu vực Dốc Lã, xã Yên Thường, huyện K, H bị cáo P có hành vi tàng trữ 0,271 gam Heroine để sử dụng, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, hành vi đó đã xâm phạm khách thể được Nhà nước bảo vệ là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy.

+ Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo P có 01 tiền án xử ngày 21/7/2020 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh T tuyên 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bồi thường 1.590.000 đồng cho ông Quyền; 200.000 đồng án phí HSST, 300.000 đồng án phí DSST. Bị cáo thi hành xong hình phạt chính ngày 08/9/2021, đã thi hành xong án phí, số tiền bồi thường chưa thi hành do ông Quyền chưa có đơn yêu cầu. Căn cứ Điều 70 BLHS thời hạn đương nhiên được xóa án với hình phạt đến 5 năm tù là 02 năm, đến ngày 08/9/2023 mới hết 02 năm, ngày 11/7/2023 bị cáo phạm tội mới nên phạm tội lần là tái phạm là tình tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây, bố đẻ bị cáo có Bằng khen chống Mỹ năm 2018 của Chủ tịch UBND tỉnh T là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Từ sự phân tích trên, xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy sử dụng cho bản thân, là hành vi Pháp luật cấm, bị cáo có 1 tiền án đã được giáo dục nhưng vẫn tiếp tục phạm tội, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian trong khung hình phạt để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

[4]. Về vật chứng của vụ án:

+ Đối với 0,227 gam Heroine sau khi đi giám định về còn, là vật nhà nước cấm lưu hành, cho tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen bên trong gắn sim số 058683xxxx của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, trả lại cho bị cáo.

+ Đối với 01 chiếc Biểm kiểm soát 36H2 – xxxx, qua điều tra xác định biển kiểm soát 36H2 – xxxx đăng ký mang tên anh Thịnh Văn Thắng, SN: 1978, trú tại: Đông Sơn, Nga Hải, Nga Sơn, T. Anh Thắng đã bán chiếc xe này cho người khác từ lâu, không nhớ thời gian bán và tên tuổi, địa chỉ người mua, nên biển số này không phù hợp với xe máy bị cáo sử dụng, giờ không tìm được chủ sở hữu biển số này, cho tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Honda Dream số khung: RLHHA08085Y799121, số máy: HA08E0799150 thu giữ của bị cáo khi phạm tội quả tang, qua điều tra xác định chiếc xe này ban đầu được lắp BKS: 29M1 – xxxxx thuộc sở hữu của anh Tưởng Văn D, SN: 1981, HKTT: Trung Thanh, Hữu Từ, Hữu Hòa, Thanh Trì, H; Sau khi anh D cho bị cáo P mượn xe, P đã làm rơi mất BKS: 29M1 – xxxxx và nhặt chiếc BKS: 36H2 – xxxx ở quê để lắp vào xe máy của anh D. Khi cho P mượn xe máy, anh D không biết bị can sử dụng vào mục đích đi mua ma túy và không biết việc P lắp biển kiểm soát mới. Do vậy, ngày 28/8/2023, Cơ quan CSĐT – Công an huyện K đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy có số khung: RLHHA08085Y799121, số máy: HA08E0799150 cho anh Tưởng Văn D là có căn cứ, HĐXX không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[7]. Về những vấn đề khác của vụ án:

+ Đối tượng bán ma túy cho P, do không xác định được nhân thân, khi nào làm rõ sẽ xem xét xử lý sau là có căn cứ.

+ Đối với việc bị cáo P làm mất BKS: 29M1 – xxxxx, anh D không có yêu cầu đề nghị gì, HĐXX không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Tuấn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ:

- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Khoản 2 Điều 106, các Điều 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Tuấn P 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 0,227 gam Heroine.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 biển kiểm soát 36H2 - xxxx + Trả lại bị cáo Phạm Tuấn P 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen bên trong gắn sim số 058683xxxx.

(Vật chứng thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/10/2023 giữa Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K) Về án phí: Bị cáo Phạm Tuấn P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo Phạm Tuấn P có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 193/2023/HS-ST

Số hiệu:193/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về