TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 193/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 203/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Hồ Văn K, Ngày, tháng, năm sinh: 20/3/1993.
Nơi sinh: Tỉnh C; Nơi cư trú: Ấp G, xã T, huyện T, tỉnh C; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; chức vụ trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Họ và tên cha: Hồ Văn T, sinh năm 1972 (sống); Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị B, sinh năm 1977 (sống); A, chị, em ruột: Có 01 người sinh năm 1996; Vợ: Đào Thị Mỹ L, sinh năm 1996; Con: Có 02 người, lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền sự, tiền án: Không; Bị cáo Hồ Văn K hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/10/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, tỉnh L. Bị cáo có mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Phạm Văn N, sinh năm 1998. Địa chỉ: ấp S, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
- Ông Hà Minh M, sinh năm 1999. Địa chỉ: ấp A, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh. Vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1977. Địa chỉ: ấp G, xã T, huyện T, tỉnh C. Có mặt.
- Bà Đào Thị Mỹ L, sinh năm 1996. Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh A. Có mặt.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Vũ L1, sinh năm 1999. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 07/10/2020, Hồ Văn K đang ở trọ tại Phòng trọ số 2 nhà trọ M2 thuộc ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L, thì K nảy sinh ý định sử dụng trái phép chất ma túy. K sử dụng mạng xã hội Facebook gọi cho H (không xác định nhân thân lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền là 500.000 đồng. H đồng ý và hẹn K đợi ở nhà trọ M2 để H đem ma túy đến bán cho K. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H đến nhà trọ Minh N1 bán cho K 01 túi nylon hàn kín bên trong chứa chất ma túy (dạng đá) với giá 500.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, K cất giấu túi nylon ma túy vào túi quần Jean bên trái phía trước rồi đi về Phòng trọ số 2. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Phạm Văn N, sinh năm 1998, nơi cư trú: Ấp S, xã T, huyện C, tỉnh Hậu Giang đi cùng Hà Minh M, sinh năm 1999, nơi cư trú: Ấp A, xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh đến Phòng trọ số 2. Tại đây, K cùng với N và M uống bia đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 08/10/2020 thì nghỉ. Lúc này, K điều khiển xe mô tô biển số 67L2-xxxxx chở N và M đi mua thẻ cào nạp tiền điện thoại. Khi K điều khiển xe mô tô biển số 67L2-xxxxx chở N và M đi đến đoạn đường bê tông thuộc ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L thì bị Công an xã Đ, huyện Đ, tỉnh L dừng xe kiểm tra phát hiện trong túi quần Jean phía trước bên trái của K có cất giấu 01 túi nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng là chất ma túy (dạng đá) nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Vật chứng tạm giữ gồm: 01 túi nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy (dạng đá); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx, số máy KB11E1214018, số khung MH1KB1113KK214790.
Tại Bản kết luận giám định số: 1025/2020/KLGĐ ngày 27/10/2020 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: “Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon được hàn kín được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4012 gam, loại Methamphetamine. Kèm theo kết luận giám định: 01 bản ảnh giám định gồm 11 ảnh được lưu tại phòng K1 Công an tỉnh L. H1 lại đối tượng giám định: Mẫu còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2368 gam được đóng túi niêm phong số 1025”.
Quá trình điều tra Hồ Văn K bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Đến ngày 08/10/2023 thì bị bắt giữ theo Quyết định truy nã số 08 ngày 19/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh L.
Qua xác minh xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx, số máy KB11E1214018, số khung MH1KB1113KK214790 do Đào Thị Mỹ L, sinh năm 1996, nơi cư trú: Số C, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh A đăng ký chủ sở hữu. Đến ngày 08/10/2020 Hồ Văn K sử dụng xe mô tô này vào việc phạm tội.
Tại bản cáo trạng số 202/CT-VKSĐH ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh L truy tố bị cáo Hồ Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Hồ Văn K trình bày: Bị cáo thừa nhận là người nghiện ma túy nên bị cáo có mua ma túy về mục đích để bị cáo sử dụng một mình của bị cáo không có ai tham gia cùng bị cáo và biết bị cáo nghiện ma tuý. Bị cáo thống nhất hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Đào Thị Mỹ L trình bày: Xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển so 67L2-xxxxx do bà đứng tên Giấy chứng nhận, việc bị cáo K sử dụng trong việc tàng trữ ma túy bà hoàn toàn không biết. Nay bà đề nghị được nhận lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh L phát biểu luận tội:
Lời khai nhận tội của bị cáo Hồ Văn K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp các chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định: Khoảng 01 giờ 30 ngày 08/10/2023, tại ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L, Hồ Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,4012 gam, loại Methamphetamine. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh L truy tố bị cáo Hồ Văn K theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo K hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có tình tiết tăng nặng.
Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Hồ Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Văn K mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/10/2023.
Về tang vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy mẫu còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2368 gam được đóng túi niêm phong số 1025. Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx, số máy KB11E1214018, số khung MH1KB1113KK214790 do Đào Thị Mỹ L, sinh năm 1996, nơi cư trú: Số C, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh A đăng ký chủ sở hữu đề nghị trả lại cho bà L. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn N, ông Hà Văn M1 và người chứng kiến ông Nguyễn Vũ L1 nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ khoản 2 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án vân tiến hành xét xử vụ án.
[3]. Về nội dung vụ án:
Lời khai nhận tội của bị cáo Hồ Văn K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 08/10/2020, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Bản ảnh hiện trường cùng với bản kết luận giám định số 1025/2020/KLGĐ ngày 27/10/2020 của Phòng K1 Công an tỉnh L và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 08/10/2020, tại đoạn đường bê tông thuộc ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L, bị cáo Hồ Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng là 0,4012 gam, loại Methamphetamine trong túi quần Jean bên trái phía trước nhằm mục đích sử dụng thì bị Công an xã Đ, huyện Đ, tỉnh L tuần tra kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, bị cáo Hồ Văn K phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ 0,4012 gam, loại Methamphetamine.
Hành vi của bị cáo Hồ Văn K đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên Cáo trạng của Viện kiêm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh L truy tố bị cáo Hồ Văn K theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
Hành vi của bị cáo Hồ Văn K là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tổn hại sức khỏe con người, gây mất trật tự xã hội.
Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của ma túy đối với xã hội cũng như bản thân bị cáo. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bị nghiêm cấm vận chuyển, mua bán, tàng trữ trái phép dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, có mức án phù hợp, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng trừng phạt, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[4]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo Hồ Văn K hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo và trong lời nói sau cùng bị cáo có ý thức ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hồ Văn K không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, đang trong quá trình điều tra bị cáo Hồ Văn K bỏ trốn và đến ngày 08/10/2023 thì bị bắt giữ theo Quyết định truy nã số 08 ngày 19/6/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, tỉnh L nên Hội đồng xét xử cũng xem xét ý thức tuân thủ pháp luật của bị cáo Hồ Văn K khi lượng hình.
Từ phân tích [3] và [4], xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt đối với bị cáo Hồ Văn K là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5]. Về tang vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 và khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Đối với mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2368 gam (chất ma túy loại Methamphetamine) được đóng túi niêm phong số 1025 là tang vật của vụ án cấm tàng trữ trái phép nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx, số máy KB11E1214018, số khung MH1KB1113KK214790 do Đào Thị Mỹ L đăng ký chủ sở hữu. Bị cáo K dùng xe của bà L, bà L không biết và tại phiên tòa bà L đề nghị được nhận lại xe mô tô trên nên Hội đồng xét xử thống nhất trả lại cho bà L là phù hợp nên chấp nhận.
Các tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh L đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30 tháng 11 năm 2023.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hồ Văn K không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập, xem xét.
[7]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy tại phiên tòa bị cáo Hồ Văn K trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hồ Văn K là Phù hợp.
[8] Đối với người nam thanh niên tên H có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo K nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo K nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Cồng an huyện Đ tiếp tục điều tra, xử lý sau.
[9] Đối với Phạm Văn N và Hà Minh M không biết việc bị cáo K tàng trữ chất ma túy (để trong túi quần) để sử dụng nên hành vi của Phạm Văn N và Hà Minh M không đủ yếu tố cấu thành tội phạm có liên quan.
[10] Đối với bà Đào Thị Mỹ L là xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx nhưng xét ý thức chủ quan bà L không biết bị cáo K tàng trữ trái phép chất ma túy khi sử dụng xe mô tô nên hành vi của bà L không cấu thành tội phạm có liên quan nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Hồ Văn K chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hồ Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn K 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/10/2023.
Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Hồ Văn K45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/12/2023) để đảm bảo cho việc thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2368 gam (chất ma túy loại Methamphetamine) được đóng túi niêm phong số 1025.
- Trả lại cho bà Đào Thị Mỹ L 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ-đen, loại Sonic, biển số 67L2-xxxxx, số máy KB11E1214018, số khung MH1KB1113KK214790.
Vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh L đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 11 năm 2023.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Hồ Văn K phải nộp 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.
4. Án này là sơ thẩm công khai. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 193/2023/HS-ST
Số hiệu: | 193/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về