Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 19/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH L

BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 05/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 05/4/2023 tại Nhà văn hóa phường Đông Phong, thành phố L, tỉnh L Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai lưu động sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2023/HSST ngày 15 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hù Văn M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1986 tại tỉnh L. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản C, xã San T, thành phố L, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá(học vấn): 09/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Hù Văn S, đã chết; Con bà: Xuân Thị H, sinh năm 1960; Họ và tên vợ: Lò Thị N, sinh năm 1977 và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2016. Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ hai; Tiền sự: Không; Tiền án: có 01 tiền án: Tại Bản án số 43/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L đã xử phạt Hù Văn M 12 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Ngày 27/12/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 25/12/2022 đến ngày 31/12/2022 được áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã San T, thành phố L, tỉnh L cho đến nay. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 25/12/2022, tổ công tác của Đội cảnh sát kinh tế và ma túy - Công an thành phố L, tỉnh L đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản Mới, xã San T, thành phố L, tỉnh L thì phát hiện Hù Văn M có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra Hù Văn M tự giác lấy từ trong lòng bàn tay trái ra giao nộp cho tổ công tác một gói được gói bên ngoài bằng 2 mảnh nilon màu đỏ, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Hù Văn M khai đó là Heroine tàng trữ để sử dụng.

Tại cơ quan điều tra, Hù Văn M khai nhận: Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ là vào khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 25/12/2022, Hù Văn M đi bộ từ nhà ở bản C, xã San T, thành phố L, tỉnh L đến khu vực Bến xe khách tỉnh L để tìm ma túy về sử dụng. Tại đây, M gặp một người đàn ông không rõ lai lịch, nhìn giống người nghiện. M chủ động hỏi mua ma túy thì người đàn ông đó bán cho M 01 một gói được gói bên ngoài bằng 2 mảnh nilon màu đỏ, bên trong có chứa Heroine với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M quay về nhà khi đi trên đường 4D thuộc bản M1, xã San T, thành phố L, tỉnh L thì bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang.

Các vấn đề khác của vụ án:

Kết luận giám định số: 03/KLGĐ ngày 25/12/2022 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: số chất bột màu trắng thu giữ của Hù Văn M trong quá trình bắt quả tang ngày 25/12/2022 có khối lượng là 0,11gam.

Kết luận giám định số: 31/KL-KTHS ngày 26/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma tuý, loại Heroine (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Cáo trạng số: 15/CT-VKSTP ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố Hù Văn M về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hù Văn M từ 13 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ trước đó. Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ một phong bì công văn của Công an thành phố L (theo hồ sơ bên trong là: 02 mảnh nilon màu đỏ; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Hù Văn M). Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các quyết định nêu trên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật để được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, các Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản ghi nhận sự việc, biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, kết luận giám định … được xem xét và tranh tụng công khai tại phiên toà. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 25/12/2022, tại khu vực bản M1, xã San T, thành phố L, tỉnh L, Hù Văn M đã tàng trữ trái phép 0,11gam Heroine trong lòng bàn tay trái của Mh để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Bị cáo Hù Văn M là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Hù Văn M có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 43/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L đã xử phạt Hù Văn M 12 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Ngày 27/12/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt, tính đến lần phạm tội ngày 25/12/2022 bị cáo chưa được xóa án tích. Do đó, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,11 gam Heroine Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

Đối với 02 mảnh nilon màu đỏ; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Hù Văn M là công cụ phạm tội và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, theo lời khai của Hù Văn M, nguồn gốc số Heroine bị thu giữ là do mua của một người đàn ông không rõ lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, làm rõ vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quan điểm của kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Hù Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hù Văn M 15 (mười lăm) tháng tù, được trừ thời hạn bị cáo bị tạm giữ là 06 (sáu) ngày, bị cáo còn phải chấp hành tiếp là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy: 02 mảnh nilon màu đỏ; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Hù Văn M (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/3/2023 giữa Công an thành phố L và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).

4. Về án phí: Bị cáo Hù Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 19/2023/HS-ST

Số hiệu:19/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về