Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 311/2021/HSST, ngày 31/12/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/HSST-QĐ, ngày 06/01/2022 đối với bị cáo:

Thòng Nhì C (tên gọi khác là O), sinh năm 1991 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp TH, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không: Trình độ học vấn: 03/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Hoa Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thòng A B (đã chết) và mẹ Tằng Nhục L, sinh năm 1966; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 04/7/2019, bị Tòa án nhân dân huyện T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong ngày 10/8/2020.

Nhân thân: Ngày 22/11/2016, bị Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 281/2016/HSST.Chấp hành xong bản án ngày 07/01/2018.

Bị cáo bị bắt ngày 08/8/2021 – Bị cáo có mặt.

Người làm chứng:

+ Anh Chung Đức S – Vắng mặt.

+ Anh Thóng Cún S1 – Vắng mặt;

+ Anh Phạm Minh T – Vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thòng Nhì C là người nghiện ma túy (loại hàng đá), vào khoảng 12 giờ ngày 07/8/2021, C sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen gắn sim số 0393xxx739 gọi cho đối tượng tên H không rõ nhân thân lai lịch để mua 1.000.000đ tiền ma túy đá. Khoảng 10 giờ ngày 08/8/2021, L gọi điện thoại cho C hẹn đến khu vực xóm Nước Đen thuộc khu 4, ấp TH, xã B, huyện T để giao tiền và nhận 03 gói nylon bên trong chứa ma túy đá. Sau đó, C giấu ma túy vào túi quần và đi bộ đến nhà anh Thóng Cún S1 đề nghị bán cho anh S1 01 điện thoại di động mà C đang cầm cô với giá 4.000.000đ, anh S1 đồng ý và đưa cho C 4.200.000đ (200.000đ đổ xăng) để đi chuộc lại điện thoại mang về giao cho anh S1. Do thời điểm này tình hình dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp, C không được đi ra khỏi địa bàn xã B nên C điện thoại cho anh Phạm Minh T nhờ T đến khu vực cây xăng thuộc đường số 4, khu 4, ấp Tân Hoa, xã B, huyện T để lấy tiền đi chuộc điện thoại về cho C thì T đồng ý. Sau đó C mượn xe mô tô hiệu XZ Wave màu đỏ biển số 60T – X của anh S đi đến điểm hẹn gặp T. Lúc 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi C đi đến khu vực đường số 4, khu 4, ấp Tân Hoa, xã B, huyện T thì bị Công an xã B phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm 03 gói nilong hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong theo quy định), số tiền 4.200.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đen cùng sim số 0393xxx739 và 02 xe mô tô hiệu ZX Wave màu đỏ, biển số 60T – X.

Tại bản kết luận giám định số 1662/KLGĐ ngày 13/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: 03 gói nylon chứa tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 9,9222gam, loại Methamphetamine.

Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 1662/KLGĐ – PC09 ngày 19/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh cùng sim số 0393xxx739 là phương tiện C sử dụng vào việc mua ma túy, đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với xe mô tô hiệu ZX Wave màu đỏ, BS 60T5 – X và số tiền 4.200.000đ là tài sản hợp pháp của anh Thòng Cún S, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh S.

Tại bản Cáo trạng số 19/CT/VKS-TB, ngày 29/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Thòng Nhì C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên nội dung cáo trạng, phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị xử lý vật chứng, đề xuất xử phạt bị cáo từ 06 năm tù đến 07 năm tù và buộc bị cáo phải chịu án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/8/2021, tại đường 4, ấp Tân Hoa, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Thòng Nhì C có hành vi tàng trữ trái phép 9,9222 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị bắt giữ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thòng Nhì C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo đã bị Tòa án kết án và đi cai nghiện bắt buộc nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội, nên cần phải có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cái theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1662/KLGĐ – PC09 ngày 19/8/2021của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh đã qua sử dụng, hiện không hoạt động có số seri 8984048008819057647.

+ Đối với 01 xe mô tô ZX Wave màu đỏ, biển số 60T5 – X và số tiền của anh Thòng Cún Sáng không liên quan đến việc phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Sáng là có căn cứ.

[5] Đối với đối tượng H và L do không rõ nhân thân lai lịch nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý. Đối với anh Thóng Cún S1 và Phạm Minh T không liên quan đến hành vi phạm tội của Thòng Nhì C nên cơ quan điều tra không xử lý. Riêng Phạm Minh T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên công an xã B đã xử phạt hành chính là có căn cứ.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Thòng Nhì C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Thòng Nhì C (tên gọi khác là O) 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2021.

2.Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại chứa trong 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1662/KLGĐ – PC09 ngày 19/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 đã qua sử dụng, hiện không hoạt động có có số seri 8984048008819057647 (theo biên bản bản giao vật chứng ngày 30/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Nai).

3.Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Thòng Nhì C phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 nsgày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về