TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 19/2022/HSST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29/3/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 126/2021/HSST ngày 30 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS ngày 10/02/2022 đối với các bị cáo:
1. Ngô Văn H – Sinh ngày 17/10/1989, tại: Gia Lai; Nơi cư trú:, tổ xx, phường HKB, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 03/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Ngô Văn Thái S năm: 1957 và bà Phạm Thị L – Sinh năm: 1968;
Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba; Có Vợ: Trịnh Thị S, sinh năm 1995 và 02 con, sinh năm: 2017, 2019.
Tiền án: Chưa.
Tiền sự: Ngày 27.7.2021 bị Công an phường Hoà Khánh Bắc xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.
Nhân thân: Ngày 19.7.2007 bị Chủ tịch UBND quận Thanh Khê áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng do có hành vi nhiều lần vi phạm an ninh trật tự tại địa phương.
Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giam ngày 28/9/2021. Có mặt.
2. Nguyễn Thành T1 – Sinh ngày 25/06/1985, tại: Thanh Hóa; Nơi cư trú: Tổ xx, phường HHN, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ văn hóa: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Nguyễn Thành D - Sinh năm: 1965 và bà Phan Thị L - Sinh năm: 1963; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất;
Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giam ngày 28/9/2021. Có mặt.
3. Nguyễn Văn Q– Sinh ngày 05/07/1983, tại: Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ xx, phường HCN, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ văn hóa: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Nguyễn Văn L - Sinh năm: 1937 và bà Phan Thị Th - Sinh năm: 1940; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư.
Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giam ngày 28/9/2021. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h400 phút, ngày 28.9.2021, tại phòng trọ tổ xx, P. HKB, Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Bị cáo Ngô Văn H điện thoại rủ Nguyễn Thành T1 đến phòng trọ của H để chơi và sử dụng trái phép chất ma tuý. T1 đồng ý và điện thoại rủ Nguyễn Văn Q cùng đến phòng trọ của H để chơi. Sau đó, T1 và Q đến phòng trọ của H thì T1, Q đưa cho H mỗi người 200.000 đồng và nói H đi lấy ma tuý về để sử dụng. Sau đó, H đi bộ đến khu vực gần đường Mê Linh, Q. Liên Chiểu gặp một người chạy xe ôm không rõ lai lịch nhờ mua giúp ma tuý đá và đưa 400.000 đồng cho người này. Khoảng 10 phút sau thì có một thanh niên không rõ lai lịch đi đến chỗ H vứt một cái khẩu trang bên trong gói ma tuý, H lấy gói ma tuý bỏ vào trong túi quần bên trái và đi về phòng trọ. Khi đến phòng trọ thì T1 hỏi có ma tuý chưa thì H nói có rồi và chuẩn bị soạn dụng cụ sử dụng ma tuý ra để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.
Tang vật thu giữ gồm:
- 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý (kí hiệu A); 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh gắn thẻ sim 0936.997.652 của Ngô Văn H; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh gắn thẻ sim 0779.564.612 của Nguyễn Thành T1; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen gắn thẻ sim 0935.212.177 của Nguyễn Văn Q; 01 bình ga khò, 01 cái ống thuỷ tinh, 01 ống hút bằng nhựa.
* Theo bản Kết luận giám định số 236/GĐ-MT ngày 04.10.2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất tinh thể màu trắng kí hiệu A gửi giám định là chất ma tuý loại Methaphetamine khối lượng 0,281 gam.
Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 28 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố các bị cáo Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Qvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố các bị cáo Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
1/ Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn H từ 18 – 21 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.
2/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T1 từ 18 – 21 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.
3/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q từ 15 – 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.
Và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Qđã thừa nhận hành vi của mình và khẳng định việc truy tố của VKS là có căn cứ, không oan, nhưng xin HĐXX cho bị cáo mức hình phạt thấp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi và quyết định của Cơ quan điều tra Công an quận Liên Chiểu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Đối chiếu lời khai của các bị cáo Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Qtại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 20h00 phút, ngày 28.9.2021, tại phòng trọ Kiệt 303 đường Nguyễn Lương Bằng, thuộc tổ 25, phường HKB, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an quận Liên Chiểu phối hợp với Công an phường Hoà Khánh Bắc, Q. Liên Chiểu kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang các bị cáo Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Q đang tàng trữ 0,281 gam ma tuý loại Methaphetamine, mục đích để sử dụng.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội, gây ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh của con người, hủy hoại sức khỏe, giảm khả năng lao động, và là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm khác.
[3]. Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo thì thấy:
Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rất rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo thường xuyên có nhu cầu sử dụng ma túy, nên đã bất chấp pháp luật, thực hiện việc chung tiền mua ma túy về tàng trữ trái phép để cùng nhau sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Do vậy, Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 28 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
[4]. Xét nhân thân, vai trò của từng bị cáo:
Bị cáo Ngô Văn H là người có nhân thân xấu, đã bị Công an phường Hoà Khánh Bắc xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Và Ngày 19.7.2007 bị Chủ tịch UBND quận Thanh Khê áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng do có hành vi nhiều lần vi phạm an ninh trật tự tại địa phương, nhưng bị cáo vẫn không tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hơn. Trong vụ án này, bị cáo Ngô Văn H là người chủ động, khởi xướng, rủ Nguyễn Thành T1 sử dụng trái phép chất ma túy, và người trực tiếp liên lạc và đi mua ma túy về cho cả nhóm cùng sử dụng. Do vậy, phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình với vai trò chủ mưu.
Bị cáo Nguyễn Thành T1, tuy chưa có tiền án tiền sự, nhưng khi nghe bị cáo H gọi điện thoại rủ sử dụng trái phép chất ma túy, lẽ ra bị cáo phải từ chối, nhưng bị cáo đã đồng ý và rủ thêm bị cáo Nguyễn Văn Qcùng sử dụng ma túy, đồng thời bị cáo còn góp số tiền 200.000đ để mua ma túy. Như vậy, ý thức và nhu cầu sử dụng ma túy của bị cáo là rất cao, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn Q, khi nghe bị cáo T1 gọi điện thoại rủ sử dụng ma túy thì cũng đồng ý ngay và góp 200.000đ cùng mua ma túy sử dụng. Việc các bị cáo chưa sử dụng được ma túy là nằm ngoài ý thức chủ quan của các bị cáo. Do vậy, HĐXX xét thấy cần phải xử lý các bị cáo mức án nghiêm minh và tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo như đề nghị của KSV tại phiên tòa là cần thiết.
[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
Trong vụ án này còn có: Người xe ôm đi mua giúp ma túy và người đã bán ma túy cho H hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên đề nghị Cơ quan Điều tra công an quận Liên Chiểu tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của các bị cáo Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Q, Công an quận Liên Chiểu đã xử phạt hành chính là có căn cứ.
[6]. Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý; 01 bình ga khò, 01 cái ống thuỷ tinh, 01 ống hút bằng nhựa. Tịch thu tiêu hủy - Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh của Ngô Văn H; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh của Nguyễn Thành T1; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen của Nguyễn Văn Q, là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với thẻ sim 0936.997.652 của Ngô Văn H; thẻ sim 0779.564.612 của Nguyễn Thành T1; thẻ sim 0935.212.177 của Nguyễn Văn Q, là phương tiện phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí HSST: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án, mỗi bị cáo phải chịu số tiền 200.000đ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
I. Tuyên bố các bị cáo: Ngô Văn H, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1/ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn H 01 (một) năm, 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.
2/ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T1 01 (một) năm, 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.
3/Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (một) năm, 03 (ba) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.
II. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 42 BLHS; Điều 76 BLTTHS.
- Tịch thu tiêu hủy: Chất ma túy còn lại sau giám định; 01 bình ga khò, 01 cái ống thuỷ tinh, 01 ống hút bằng nhựa; thẻ sim 0936.997.652; thẻ sim 0779.564.612; thẻ sim 0935.212.177.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen.
(Vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng theo biên bản giao nhân vật chứng ngày 05/01/2022).
III. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000đ án phí HSST.
IV. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HSST
Số hiệu: | 19/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về