Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 188/2021/HS-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 196/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Vũ Văn H (H), sinh năm 1991 tại Hải Phòng.

HKTT: Thôn C, xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng.

Nghề nghiệp: Cắt tóc; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn H1 và bà Đỗ Thị V1 (đã chết); Bị cáo có vợ: Đỗ Thị Thu T1 (tên gọi khác: Đỗ Thị Thu S, Đỗ Thị Thu N) (đã ly hôn). Có 01 con sinh năm 2012 (đã chết) - Tiền án: Ngày 25/9/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 năm tù về các tội “Cướp tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/6/2020.

- Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/6/2021 và đang bị tạm giam. (Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Văn H là đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn định. Vào khoảng 21 giờ ngày 11/6/2021, H cùng với một người bạn tên T (không rõ nhân thân lai lịch) đến thuê phòng số 7 nhà nghỉ 171 ở ấp H, xã T, huyện B, tỉnh Đồng Nai để nghỉ. Khi thuê phòng xong thì T đi ra ngoài mua thẻ nạp tiền điện thoại còn H đi vào phòng. Trong lúc vệ sinh ga trải giường để nằm nghỉ thì H phát hiện phía dưới nệm góc trên cùng bên trái có 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng (H biết rõ đây là ma túy đá) cùng 01 cái đoản sắt tự chế và 01 cái cờ lê bằng sắt dùng để vặn ốc nên H lấy và cất giấu vào trong ba lô của mình. Khi T quay trở lại phòng số 7 thì H nói cho T biết mới nhặt được ma túy đá và H lấy ra một ít ma túy đá bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy (do H mang theo trước đó) rồi cùng với T sử dụng ma túy đá, số ma túy còn lại H cất giấu vào trong ba lô của H. Sau khi sử dụng ma túy xong thì T đi ra ngoài phòng còn H ở lại phòng nghỉ. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Công an xã Hưng Thịnh, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai kiểm tra phòng nghỉ phát hiện trong ba lô của H có 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng H khai nhận là ma túy đá nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Cùng ngày, Công an xã Hưng Thịnh đã chuyển giao Vũ Văn H cùng toàn bộ hồ sơ, vật chứng cho Công an huyện Trảng Bom để thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 đoản tự chế bằng kim loại; 01 cái cờ lê bằng sắt dùng để vặn ốc; 01 điện thoại di dộng không rõ nhãn hiệu, số thuê bao 0937.439.465 và số tiền 700.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số: 1200/KLGĐ-PC09 ngày 18/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong thu giữ của đối tượng Vũ Văn H gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,3764 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 18/6/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Vũ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” để điều tra. Quá trình điều tra Vũ Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 204/CT-VKS-TB ngày 31/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo Vũ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với đối tượng tên T, do chưa xác định được nhân thân lai lịch cụ thể nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Văn H từ 24 (hai mươi bốn) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định số: 1200/KLGĐ-PC09 ngày 18/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai chứa ma tuý sau giám định; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 đoản tự chế bằng kim loại; 01 cái cờ lê bằng sắt dùng để vặn ốc.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Lời nói sau cùng của bị cáo: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo đã hối hận về hành vi phạm tội của bị cáo, mong Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng mô tả. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 11/6/2021 tại phòng trọ số 7 nhà nghỉ 171 thuộc ấp H, xã T, huyện B, tỉnh Đồng Nai, Vũ Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,3764 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy pháp luật nghiêm cấm, nhưng để có ma túy sử dụng, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật. Bản thân bị cáo đã có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bản thân bị cáo không có thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

[6.1] Đối với số ma túy còn lại sau giám định được chứa trong 01 phong bì niêm phong số: 1200/KLGĐ-PC09 ngày 18/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[6.2] Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 đoản tự chế bằng kim loại; 01 cái cờ lê bằng sắt dùng để vặn ốc không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[6.3] Đối với 01 điện thoại không rõ nhãn hiệu, số thuê bao 0937439465 và số tiền 700.000 đồng thu giữ của bị cáo H do không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo H là phù hợp.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số: 1200/KLGĐ-PC09 ngày 18/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 đoản tự chế bằng kim loại; 01 cái cờ lê bằng sắt dùng để vặn ốc. (Các vật chứng nêu trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/9/2021)

3. Về án phí hình sự: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vũ Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2021/HS-ST

Số hiệu:188/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về