TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 187/2024/HS-ST NGÀY 04/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 04 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố TH, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 202/2024/TLST-HS ngày 07/03/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 210/2024/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 03 năm 2024, đối với bị cáo:
Lê Chí D; sinh ngày 27 tháng 12 năm 2006; nơi sinh: tỉnh Thanh Hoá; Nơi thường trú: Phố AS, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh Thanh Hóa; Nơi ở hiện nay: Số nhà 15/235 AS, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh Thanh Hoá; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 10/12 (đã nghỉ học); Con ông: Lê Chí L (đã chết); Con bà: Võ Thị H, sinh năm 1979; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ 2; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: không. Tạm giữ, tạm giam: Bị tạm giữ từ ngày 25/12/2023 đến ngày 31/12/2023 chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố TH. Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Võ Thị H, sinh năm: 1979 Địa chỉ: Số nhà 15/235 AS, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh Thanh Hoá. Là mẹ của bị cáo. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thanh Vân, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hoá. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Quang T, sinh năm: 1986;
Địa chỉ: Số nhà 85 Đồng Lễ, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt.
2. Chị Lê Thị LA, sinh năm 2002 Địa chỉ: Số nhà 15/235 AS, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh Thanh Hoá. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 25/12/2023, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TH thực hiện nhiệm vụ tuần tra tại trước khách sạn Ngọc Ly 2, đường Đinh Liệt, phường Lam Sơn, thành phố TH, tỉnh Thanh Hoá phát hiện Lê Chí D điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Honda Zoomer, BKS 36B-899xx đèo chị Lê Thị LA (chị gái D) có nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Khi bị kiểm tra, D đã ném xuống đất ngay tại vị trí D dừng xe 01 chai nhựa màu đỏ, bên trong chứa 02 viên nén màu hồng và 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (1,5x1,5)cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. D khai nhận 02 viên nén màu hồng và các hạt tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ là ma túy D cất giấu để sử dụng, Lê Thị LA không biết, không liên quan việc D mang theo ma túy trong người. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ số ma túy, xe môtô để phục vụ công tác điều tra.
Kết quả giám định ma túy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: 02 viên nén màu hồng là ma túy, có tổng khối lượng 0,786 gam, loại Methamphetamine; Các hạt tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 0,580 gam, loại Ketamine.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của D tại số nhà 15/235 AS, phường ĐH, thành phố TH, phát hiện thu giữ: 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (1,5x1,5)cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng đựng trong 01 hộp giấy. D khai nhận đây là ma túy của D, cất giấu để sử dụng.
Kết quả giám định ma túy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 0,193 gam, loại Ketamine.
Về nguồn gốc ma tuý, D khai nhận: Khoảng 19 giờ, ngày 25/12/2023, D đến khu vực gầm cầu vượt đường Trần Hưng Đạo, phường Nam Ngạn, thành phố TH mua của một người đàn ông tự xưng tên Cuội (không rõ nhân thân, lai lịch) 02 viên thuốc lắc và 02 túi ma túy ketamine với giá 2.100.000 đồng, mang về nhà cất giấu. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, D lấy 02 viên thuốc lắc và 01 túi ketamine bỏ vào 01 chai nhựa màu đỏ cất vào túi áo khoác, rồi điều khiển xe mô tô chở chị gái là Lê Thị LA đi uống nước (LA không biết việc D mang theo ma túy trong người). Khi bị Công an yêu cầu kiểm tra, lo sợ bị phát hiện D đã ném chai nhựa màu đỏ bên trong chứa ma túy xuống đất thì bị Công an phát hiện, thu giữ.
Quá trình điều tra, Lê Chí D đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập.
- Sau giám định, Cơ quan giám định đã hoàn lại mẫu vật giám định, gồm toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong và 0,545 gam chất bột màu hồng của phong bì niêm phong ký hiệu M1; 0,506 gam các hạt tinh thể màu trắng. Tất cả cho vào một phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thúy Hằng, Hoàng Trung Hiếu và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH để xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda Zoomer, BKS 36B-899xx, chủ sở hữu là chị Võ Thị Hà (mẹ của bị cáo), trước khi đi bị cáo nói với chị Hà là mượn xe để chở chị gái là LA đi uống nước, chị Hà không biết việc bị cáo tàng trữ ma tuý. Quá trình điều tra, xác định bị cáo điều khiển xe mô tô Honda Zoomer BKS 36B-899xx khi chưa đủ tuổi. Cơ quan Điều tra đã chuyển tài liệu liên quan và chiếc xe mô tô đến Đội Cảnh sát giao thông – Công an thành phố TH xử lý.
* Tại bản Cáo trạng số 136/CT-VKS ngày 06 tháng 03 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo Lê Chí D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS).
Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả giám định số ma túy trên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố TH tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 90; Điều 91; Điều 101; Điều 38 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, không có tính chất vụ lợi, bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm và thu nhập ổn định, chưa đủ tuổi thành niên nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến trình bày của người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với tội danh, khung hình phạt mà đại diện VKSND đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, tuổi đời còn trẻ, nhận thức còn hạn chế, gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn, bố mất sớm, mẹ không có công việc, thu nhập ổn định, nhà còn phải chăm sóc ông bà nội già yếu, bệnh tật. Ngoài phạm tội lần này bị cáo chưa vi phạm pháp luật lần nào, đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo thành khẩn khai báo, xem xét về nhân thân, hoàn cảnh gia đình và độ tuổi đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo 12 tháng tù.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo đồng ý và không bổ sung ý kiến của bị cáo, người bào chữa.
- Bị cáo không bổ sung ý kiến của người bào chữa, đồng ý với toàn bộ quan điểm và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra và các vật chứng thu được trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ và cơ sở để kết luận: Lê Chí D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,786 gam ma túy, loại Methamphetamine và 0,773 gam ma túy, loại Ketamine (Tổng khối lượng hai chất ma túy trong vụ án tương đương 0,979 gam Methamphetamine hoặc 3,917 gam Ketamin) để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an thành phố TH phát hiện, bắt quả tang vào ngày 25/12/2023.
Bị cáo nhận thức được việc “tàng trữ trái phép chất ma túy” là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội khi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS. Ý thức chủ quan của bị cáo là tàng trữ ma túy để sử dụng nên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Vì vậy, hành vi của bị cáo Lê Chí D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân đã ngang nhiên mua ma túy về sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an chung cần phải xử lý nghiêm.
[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Mặc dù bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, chưa đủ tuổi thành niên nhưng với tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm về ma túy thì việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo, sớm trở thành người công dân tốt.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng không có tính chất vụ lợi, bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm và thu nhập ổn định, chưa đủ tuổi thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Xét số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong bằng phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH theo Biên bản giao nhận vật chứng số 16/2022/THA ngày 04/11/2021. Đây là chất nhà nước cấm lưu hành, sử dụng nên căn cứ vào Điều 47, Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy.
[7] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH, tỉnh Thanh Hóa về việc giải quyết toàn diện vụ án là có căn cứ nên được chấp nhận.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTV Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 90; Điều 91; Điều 101; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 BLTTHS; Khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội quy định về án, phí lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Chí D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Bị cáo Lê Chí D 12 ( mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 25/12/2023).
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong bằng phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa. Số ma túy trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH theo biên bản giao nhận vật chứng số 134/2024/THA ngày 27/03/2024.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo với thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo cho việc thi hành án.
Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án để bảo vệ lợi ích của bị cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 187/2024/HS-ST
Số hiệu: | 187/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về