Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 183A/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 183A/2021/HS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở Phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2021/QĐST-HS ngày 07 tháng 11năm 2021 đối với bị cáo:

Đậu Đức C; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 20/10/1977, tại huyện Quỳnh L, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 13, xã Quỳnh V, huyện Quỳnh L, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông: Đậu Đức K và bà Nguyễn Thị T; Sinh năm: 1953; Có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Nguyễn Thị H; Sinh năm: 1983; Con: 03 người. Lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 25/9/2014, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh L xét xử Đậu Đức C 7 năm 6 tháng tù về tội về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 53/2014/HSST ngày 25/9/2014, chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2020.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/6/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt tại Phên tòa.

+ Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị A - Văn phòng luật sư Vinh D và Cộng sự. Có mặt tại Phên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Phên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 22/06/2021, Đậu Đức C điều khiển xe máy BKS: 37L2 - X mang theo số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng đến thị trấn Thạch G, huyện Tương D, tỉnh Nghệ An với mục đích mua ma túy để sử dụng. Khoảng 13 giờ cùng ngày, C đến thị trấn Thạch G, huyện Tương D thì gặp một người giới thiệu tên là Ph (không rõ lai lịch, địa chỉ). Qua trao đổi, C đặt vấn đề nhờ Ph tìm mua ma túy cho C. C hỏi Ph: “Có hàng không” (ý hỏi Ph có ma túy bán không) thì Ph trả lời: “Có”. C tiếp tục hỏi Ph: “Có nhiều hàng không, bán cho bốn mươi triệu”. Ph dẫn C lên khu vực đồi gần khu vực thị trấn Thạch G, huyện Tương D gặp một người đàn ông (không quen biết). C nói với người đàn ông đó: “Bán cho bốn mười triệu” (ý nói người đàn ông đó bán cho C bốn mươi triệu tiền Heroine). C đưa cho người đàn ông 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng, người đàn ông cầm tiền rồi cùng Ph đi đâu đó. Khoảng hơn 1 giờ sau, người đàn ông quay lại đưa cho C gói ma túy bên ngoài được bọc bằng bao potylen màu đen. C nhận lấy gói ma túy cất giấu vào túi áo khoác và cởi áo khoác bỏ vào cốp xe máy rồi đi về. Khoảng 18 giờ cùng ngày 22/06/2021, khi C đi đến khu vực Bản Quang Ph, xã Tam Đ, huyện Tương D, tỉnh Nghệ An thì bị Công an huyện Tương D bắt quả tang.

Kết luận giám định số 1041/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 27/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận:

“02 (hai) mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Đậu Đức C gửi tới giám định đều là ma túy (Heroine). Số chất bột màu trắng thu giữ của Đậu Đức C có tổng khối lượng là 170 g (Một trăm bảy mươi gam)”.

Về thu giữ, xử lý vật chứng vụ án:

- 170 gam Heroine, đã lấy 5,35 gam giám định, còn lại 164,65 gam Heroine.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, Imei: 357755103884563.

- 01 (một) chiếc áo khoác màu xanh đen.

Vật chứng hiện được bảo quản tại kho vật chứng Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda wave, màu trắng đen bạc. Biển kiểm soát: 37L2-X ; Số máy: JHC12E7343518; Số khung: RLHC1256FY343432. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe máy trên là của bà Hồ Thị H, sinh năm 1983, trú tại xóm 12, xã Quỳnh V, huyện Quỳnh L, tỉnh Nghệ An. Do bà Hồ Thị H không biết Đậu Đức C mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho bà Hồ Thị H.

- Số tiền 9.500.000 đồng hiện bảo quản tại Kho bạc nhà nước tỉnh Nghệ An Bản cáo trạng số 201/CT/VKS-P1 ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Đậu Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Phên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đậu Đức C từ 17 năm tù đến 18 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 9.000.000 đồng, tạm giữ số tiền 9.500.000. đồng để đảm bảo việc thi hành án. Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 164,65 gam heroine cùng vỏ giấy niêm phong cũ và 01 chiếc áo khoác màu xanh đen đã qua sử dụng không có giá trị; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia.

Người bào chữa cho bị cáo Đậu Đức C không tranh luận về tội danh, điều luật áp dụng, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo thấp hơn mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Bị cáo đồng ý với quan điểm của người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Phên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan C sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Phên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Đậu Đức C thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố: Ngày 22/06/2021, Đậu Đức C đi đến đồi gần khu vực thị trấn Thạch G, huyện Tương D, tỉnh Nghệ An mua của một người không quen biết 170 gam Heroine với giá 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng mục đích để sử dụng. Cùng ngày, khi C đưa ma túy về đến khu vực Bản Quang Ph, xã Tam Đ, huyện Tương D, tỉnh Nghệ An thì bị Công an huyện Tương D bắt quả tang. Xét lời khai của bị cáo tại Phên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án như Biên bản phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, kết luận giám định. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận bị cáo Đậu Đức C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vi phạm điểm b khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát Nhân Dân tỉnh Nghệ An là có căn cứ.

[3] Xét tính chất tội phạm thấy rằng, bị cáo C nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật hình sự. Bị cáo đã từng bị xét xử tội danh về ma túy, mặc dù biết rõ hậu quả nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo đã bất chấp quy định nghiêm khắc của pháp luật lao vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội không những gây tác hại nghiêm trọng đến trật tự an ninh xã hội mà còn làm suy thoái giống nòi, phá hoại hạnh phúc và kinh tế gia đình, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện đồng thời là nguyên nhân lây lan nạn dịch HIV và các tệ nạn, tội phạm khác. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm trừng trị và cải tạo giáo dục bị cáo thành người có ích đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Ngày 25/9/2014, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh L xử phạt 7 năm 6 tháng tù về tội về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số 53/2014/HSST ngày 25/9/2014, chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2020, bị cáo chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra cũng như tại Phên tòa sơ thẩm bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình - Là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Đối với người đàn ông tên Ph và người đàn ông đi cùng Ph là những người mà C khai đã bán ma túy cho C nhưng C không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ.

[6] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Do đó, cần phạt tiền bị cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng: Ma túy là chất gây nghiện, Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng dưới bất kỳ mọi hình thức. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy 164,65 gam heroine cùng vỏ giấy niêm phong cũ và 01 chiếc áo khoác màu xanh đen đã qua sử dụng không có giá trị.

01 điện thoại di động Nokia không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

Tạm giữ số tiền 9.500.000 (Chín triệu năm trăm ngàn) đồng để đảm bảo việc thi hành án.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Đậu Đức C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đậu Đức C 18 (Mười tám) năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/6/2021.

Phạt tiền bị cáo 9.000.000 (Chín triệu) đồng, tạm giữ số tiền 9.500.000 (Chín triệu năm trăm ngàn) đồng để đảm bảo việc thi hành án. Đặc điểm tài sản như biên bản giao nhận tài sản giữa Cơ quan C sát điều tra tỉnh Nghệ An và kho bạc nhà nước Nghệ An ngày 13/9/2021.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại gồm 164,65 gam Heroine cùng vỏ giấy niêm phong cũ và 01 chiếc áo khoác màu xanh đen đã qua sử dụng không có giá trị. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận giữa Cơ quan C sát điều tra tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An 20 tháng 10 năm 2021.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Đậu Đức C phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 183A/2021/HS-ST

Số hiệu:183A/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về