TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 18/2023/HS-ST NGÀY 10/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10/5/2023, tại Nhà văn hóa bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng,huyện Nậm Nhùn, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số 18/2023/HSST ngày 04/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2023/QĐXXST-HS ngày 26/4/2023 đối với bị cáo: Họ và tên: Khoàng Văn T; tên gọi khác: không;
Sinh năm 1997, tại L;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Khoàng Văn L (đã chết)và con bà Lò Thị V (đã chết); bị cáo có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ bảy trong gia đình; Vợ, con: Không; Tiền án: không Tiền sự:
có 01 tiền sự; Theo Quyết định số 72 ngày 06/10/2020 của UBND xã Nậm Hàng, huyện N, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Khoàng Văn T, thời hạn là 03 tháng. Đến ngày 06/01/2021 Khoàng Văn T đã chấp hành xong. Đến thời điểm phạm tội bị cáo còn tiền sự.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2022, tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh L cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Những người tham gia tố tụng khác:
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Anh Vàng Văn Ng, sinh năm 1976 Trú tại: Bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L (Vắng mặt tại phiên toà có lý do).
* Người làm chứng:
Anh Vàng Văn H, sinh năm 2001 Trú tại: Bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L (Vắng mặt tại phiên toà không có lý do).
* Người bào chữa cho bị cáo Khoàng Văn T: Bà Nông Thị Minh H – Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh L (Có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2022, Khoàng Văn T mượn xe mô tô BKS 25M1 – xxxx, của anh Vàng Văn Ng sinh năm 1976, trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L, đi từ nhà đến bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện N, tỉnh L. Mục đích tìm mua Heroine để sử dụng cho bản thân. Đến nơi T gặp một người đàn ông không biết tên tuổi và địa chỉ của người đàn ông này. Qua trao đổi T mua được của người đàn ông này 01 gói Heroine, được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 1.500.000 đồng, sau đó người đàn ông bán ma túy cho T đi đâu, làm gì T không biết. Mua được Heroine, T cất gói Heroine vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Trên đường về T dừng lại rồi vào bụi cây ven đường lấy một ít Heroine ra sử dụng bằng hình thức hít.
Số Heroine còn lại T tách ra thành hai phần rồi dùng mảnh nilon màu xanh gói lại thành một gói, rồi cho vào túi quần bên phải đang mặc và điều khiển xe mô tô đi về. Khi T đi đến tổ dân phố N, thị trấn N, huyện N thì gặp Vàng Văn H sinh năm 2001 ở cùng bản, H xin đi nhờ, T đồng ý (Toản không nói cho H biết Toản đang tàng trữ Heroine). Hồi 18 giờ 10 phút cùng ngày, khi về đến bản Nậm Cầy, xã Nậm hàng, huyện N, Khoàng Văn T bị Công an xã Nậm Hàng phát hiện bắt quả tang thu giữ gói Heroine trên và 01 xe mô tô BKS 25M1- xxxx của T đang điều khiển.
Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập biên bản niêm phong vật chứng bị tạm giữ 01 bọc nilon, bên trong có 02 gói chất bột khô màu trắng của Khoàng Văn T.
Cùng ngày 22/12/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã mở niêm phong, xác định khối lượng và kết luận giám định tư pháp về khối lượng số 02 Công an huyện N, xác định: Toàn bộ chất bột khô màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Khoàng Văn T có tổng khối lượng 2,42 gam và đã lấy toàn bộ 2,42 gam chất bột khô, màu trắng thu giữ của Khoàng Văn T làm mẫu giám định chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 39/GĐ-KTHS ngày 26/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: 02 mẫu chất bột khô, màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Khoàng Văn T gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine; (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).
Cáo trạng số 10/CT - VKS ngày 03 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố bị cáo Khoàng Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:
1."Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:
c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Khoàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Khoàng Văn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo, bị cáo sống tại khu vực đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn án phí theo quy định, về vật chứng đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt; áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở khu vực đặc biệt khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Khoàng Văn T.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, trước Hội đồng xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối hận về hành vi của mình đã gây ra. Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát và ý kiến của người bào chữa cho bị cáo và không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Khoàng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Do bản thân bị cáo Khoàng Văn T nghiện ma tuý, nên hồi 18 giờ 10 phút ngày 22/12/2022, Khoàng Văn T trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm hàng, huyện N, đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,42 gam Heroine, thì bị Công an xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số Heroine và 01 xe mô tô BKS 25M1-xxxx của T đang điều khiển. Mục đích Khoàng Văn T tàng trữ Heroine là để sử dụng cho bản thân.
Do vậy, hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh L đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa, ma tuý còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui của gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì bản thân nghiện ma tuý nên bị cáo đã cố ý thực hiện.
[4]. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số.
Xét quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt, áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, bị cáo sống thuộc khu vực đặc biệt khó khăn áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của người bào chữa cho bị cáo.
Về nhân thân: Ngày 06/10/2020, Ủy ban nhân dân xã Nậm Hàng, huyện N, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã đối với Khoàng Văn T, ngày 06/01/2021 Khoàng Văn T đã chấp hành xong, đến ngày phạm tội bị cáo còn tiền sự. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[5]. Về vật chứng của vụ án:
02 gói nhỏ Heroine có tổng khối lượng 2,42 gam thu giữ của bị cáo Khoàng Văn T, đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Vỏ bì sau khi mở niêm phong được đựng trong một 01(một) phong bì thư do Công an huyện N phát hành, mặt trước của bì niêm phong có ghi: vỏ bì sau khi mở niêm phong của Khoàng Văn T, sinh năm 1997, trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L; hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xét thấy đây là vỏ bì niêm phong vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên cần tiêu hủy.
Đối với chiếc xe máy YAMAHA loại TAURUS 16S2 màu đen; biển kiểm soát 25M1- xxxx, số khung 126083, số máy 126069, dung tích xi lanh 113cm3 thu giữ của Khoàng Văn T (xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong). Xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Vàng Văn Ng, sinh năm 1976, trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm hàng, huyện N, tỉnh L. Do khi Khoàng Văn Toản mượn dùng xe máy đi mua ma túy anh Vàng Văn Ng không biết việc bị cáo dùng vào việc phạm tội. Trong quá trình điều tra và trong đơn xin xét xử vắng mặt anh Vàng Văn Ng cũng đề nghị xin lại chiếc xe máy nói trên, nên cần trả lại cho anh Vàng Văn Ng là phù hợp theo quy định của pháp luật.
Đối với Vàng Văn H, khi H đi nhờ xe của Toản về nhà, Hưởng cũng không biết việc T đang tàng trữ Heroine, nên Vàng Văn H không phạm tội “không tố giác tội phạm”.
Trong vụ án Khoàng Văn T khai nguồn gốc số Heroine bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Mông, kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ người này. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.
[6]. Về án phí: Bị cáo Khoàng Văn T là dân tộc thiểu số, sinh sống thuộc khu vực đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng điểm đ Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Khoàng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
1. Về hình phạt:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Khoàng Văn T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 22/12/2022.
Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng của vụ án:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:
- Vỏ bì sau khi mở niêm phong được đựng trong một 01(một) phong bì thư do Công an huyện N phát hành. mặt trước của bì niêm phong có ghi: Vỏ bì sau khi mở niêm phong của Khoàng Văn T, sinh năm 1997, trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh L; hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt sau của bì niêm phong các mép được dán kín, trên mép dán của bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng đè lên, trên mảnh giấy trắng có thể hiện chữ ký họ tên của: Lò Văn Hội, Vũ Mạnh Hiếu, Đặng Hồng H, Lường Văn Đức, Lò Văn Tài, Khoàng Văn T và đóng 02 hình dấu tròn đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh L ở hai đầu mép dán.
Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho anh Vàng Văn Ng, sinh năm 1976, trú tại bản Nậm Cầy, xã Nậm hàng, huyện N, tỉnh L, là người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan trong vụ án 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại TAURUS 16S2, màu đen BKS 25M1- xxxx, số khung 126083, số máy 126069, dung tích xi lanh 113cm3 thu giữ của Khoàng Văn T (xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15giờ 10 phút ngày 19/4/2023 giữa Cơ quan Công an huyện N, tỉnh L với Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh L).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Khoàng Văn T.
4. Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2023/HS-ST
Số hiệu: | 18/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về